Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

Thơ Marina Tsvetaeva - Phần 5



98. HẠNH PHÚC

Em ngày xưa chỉ quí mỗi hoa hồng
Trong mái tóc có một vành hoa khác.
Những bông hoa đam mê em phụ bạc?”
Là em vì anh đấy, anh của em!”

“Vào tháng tư anh cần hoa linh lan
Đến tháng năm dưới chân anh giẫm đạp
Em thì thào điều chi rất khó nhọc?”
“Là em vì anh đấy, anh của em!”

“Chuông lục lạc anh thấy rất dễ thương
Anh sẽ làm đầy tớ chuông lục lạc
Em lặng lẽ vành hoa mình giật phắt?”
“Là em vì anh đấy, anh của em!”

Счастье

-- "Ты прежде лишь розы ценила,
В кудрях твоих венчик другой.
Ты страстным цветам изменила?"
-- "Во имя твое, дорогой!"

-- "Мне ландышей надо в апреле,
Я в мае топчу их ногой.
Что шепчешь в ответ еле-еле?"
-- "Во имя твое, дорогой!"

-- "Мне мил колокольчик-бубенчик,
Его я пребуду слугой.
Ты молча срываешь свой венчик?"
-- "Во имя твое, дорогой!"



99. GỬI MẸ

Có thật nhiều trên đời quên lãng
Từ con tim đi hẳn đến muôn đời
Chúng con nhớ buồn bã những bờ môi
Và nhớ mái tóc dày rậm.

Trên cuốn vở tiếng thở dài chầm chậm
Ngọc rubi trên chiếc nhẫn sáng ngời
Nhớ mỗi khi trên chiếc giường ấm cúng
Gương mặt của mẹ mỉm cười.

Chúng con nhớ những con chim bị thương
Nỗi buồn đau thời xuân xanh của mẹ
Và trên những bờ mi nhiều giọt lệ
Khi đã tắt tiếng dương cầm.

Мame

Как много забвением темным
Из сердца навек унеслось!
Печальные губы мы помним
И пышные пряди волос,

Замедленный вздох над тетрадкой
И в ярких рубинах кольцо,
Когда над уютной кроваткой
Твое улыбалось лицо.

Мы помним о раненых птицах
Твою молодую печаль
И капельки слез на ресницах,
Когда умолкала рояль.



100. BÔNG HỒNG ĐẦU TIÊN

Cô bé tặng bông hồng cho cậu bé
Bông hồng đầu tiên từ trong bụi hoa.
Cậu bé hôn cô bé lên môi, và thế là
Nụ hôn đầu đời trao cho người như thế.

Mặt trời khuất, đường phố cũng vắng hoe
Hôn vào môi quả thật là xấu hổ!
Có cần thiết bẻ hoa không cô bé
Bông hồng đầu tiên từ trong bụi hoa?

Первая роза

Девочка мальчику розу дарит,
Первую розу с куста.
Девочку мальчик целует в уста,
Первым лобзаньем дарит.

Солнышко скрылось, аллея пуста.
Стыдно в уста целовать!
Девочка, надо ли было срывать
Первую розу с куста?


 

101. NHỮNG TRÒ CHƠI DẠI DỘT

Con búp bê dại dột từ chiếc ghế
Tôi nhấc lên, mặc quần áo vào cho.
Rồi tôi vứt búp bê xuống sàn nhà:
Tôi đã chán ngấy trò chơi làm mẹ!

Tôi đã không đứng lên từ chiếc ghế
Mà thật lâu vào quyển sách tôi nhìn.
Rồi tôi lại vứt quyển sách xuống sàn:
Tôi đã chán ngấy trò chơi làm bố!
1906-1920

Скучные игры

Глупую куклу со стула
Я подняла и одела.
Куклу я на пол швырнула:
В маму играть — надоело!

Не поднимаясь со стула
Долго я в книгу глядела.
Книгу я на пол швырнула:
В папу играть — надоело!
1906-1920



102. CHÚC THƯỢNG LỘ BÌNH AN

Anh rụt rè nhìn vào đôi mắt em
Anh muốn liếc nhìn điều chi trong đó
Mặt trời đã ghé xuống sau đồng cỏ
Anh của em, chúc thượng lộ bình an!

Tình là tình trong lần gặp đầu tiên
Xin chịu hàng và xin anh quên lãng.
Đã cháy lên trên ban công ngọn nến…
Anh của em, chúc thượng lộ bình an!

Cho con tim được yên trí, an thần
Anh hãy để cho con tim được ngủ!
Em đã mở rộng toang hai cánh cửa…
Anh của em, chúc thượng lộ bình an!

Добрый путь!

В мои глаза несмело
Ты хочешь заглянуть.
За лугом солнце село...
Мой мальчик, добрый путь!

Любви при первой встрече
Отдайся и забудь.
Уж на балконе свечи...
Мой мальчик, добрый путь!

Успокоенье -- сердцу,
Позволь ему уснуть!
Я распахнула дверцу...
Мой мальчик, добрый путь!



103. CHUYỆN CỔ TÍCH THÁNG CHẠP

Ta hãy còn quá trẻ đ mà tha thứ
Cho người đã làm tan vẻ kiều diễm trong ta.
Nhưng, để về cái người đã qua không buồn bã
Thì ta lại quá già!

Từng có lâu đài màu hồng như bình minh mùa đông
Như thế giới mênh mông và như cơn gió cổ.
Ta đã từng hầu như là con gái bậc đế vương
Hầu như là những nàng công chúa.

Bố là ông tiên, dữ dằn, tóc bạc
Ta giận hờn, tìm cách buộc xiềng gông
Mỗi buổi chiều cúi xuống trên tro tàn
Ta làm phép thuật.

Người ta uống máu bằng sừng của con hươu chạy nhanh
Người ta nhìn những con tim qua kính lúp…
Ai người có thể tin rằng trên đời có tình
Cứ ngỡ rằng dại dột.

Có một buổi chiều từ bóng tối nhạt nhoà
Một hoàng tử buồn mặc áo quần màu xám
Chàng nói không cần tin, thế mà ta
Lại nghe theo và tin tưởng.

Bình minh tháng chạp nhìn vào ô cửa sổ
Ánh sáng rụt rè, màu đỏ thắm xa xăm…
Bình minh ngủ và chẳng cần quan tâm
Rằng ta đã từng đau khổ!

Ta hãy còn quá trẻ để mà quên lãng
Người đã làm tan vẻ kiều diễm trong ta.
Nhưng, để lại yêu người dịu dàng đằm thắm
Thì ta đã quá già!

Декабрьская сказка

Мы слишком молоды, чтобы простить
Тому, кто в нас развеял чары.
Но, чтоб о нем, ушедшем, не грустить,
Мы слишком стары!

Был замок розовый, как зимняя заря,
Как мир -- большой, как ветер -- древний.
Мы были дочери почти царя,
Почти царевны.

Отец -- волшебник был, седой и злой;
Мы, рассердясь, его сковали;
По вечерам, склоняясь над золой,
Мы колдовали;

Оленя быстрого из рога пили кровь,
Сердца разглядывали в лупы...
А тот, кто верить мог, что есть любовь,
Казался глупый.

Однажды вечером пришел из тьмы
Печальный принц в одежде серой.
Он говорил без веры, ах, а мы
Внимали с верой.

Рассвет декабрьский глядел в окно,
Алели робким светом дали...
Ему спалось и было всe равно,
Что мы страдали!

Мы слишком молоды, чтобы забыть
Того, кто в нас развеял чары.
Но, чтоб опять так нежно полюбить
Мы слишком стары!



104. DƯỚI MƯA

Chầm chầm một cơn mưa nhỏ
Ướt trên mái tóc vàng
Cô bé lặng lẽ đứng bên cánh cửa
Cô bé chờ mong.

Mây màu xám, còn xám hơn – ý nghĩ
Ý nghĩ rằng: “Liệu chàng có đến không?”
Hãy chạy đến ngay bây giờ, cậu bé
Cô bé chờ mong!

Từng khoảnh khắc cứ bay về phía trước
Con tim trẻ thơ đã khôn hơn
Có lâu không cậu bé, bên cánh cửa thứ nhất
Cô bé chờ mong?

Под дождем

Медленный дождик идет и идет,
Золото мочит кудрей.
Девочка тихо стоит у дверей,
Девочка ждет.

Серые тучи, а думы серей,
Дума: "Придет? Не придет?"
Мальчик, иди же, беги же скорей:
Девочка ждет!

С каждым мгновеньем, летящим вперед,
Детское сердце мудрей.
Долго ли, мальчик, у первых дверей
Девочка ждет?



105. ANH HÃY NHÌN CHĂM CHÚ

Anh hãy nhìn chăm chú và nếu có thểhãy dịu dàng hơn
Và nếu có thểlâu hơn, đừng rời khỏi nàng ánh mắt
Nàng đứng trước mặt anhtrên cổ chuỗi hạt cườm
Và xõa xuống tận bờ vai mái tóc.

nàng có tất cả những gì mà anh yêu, những gì bay lượn vòng quanh đời đấy
Anh đã không còn đuổi kịpdù con tàu chạy chẳng hề mau.
Trong tôi không phải tình yêu của thi sĩ nói lời đâu
Và cũng không phải niềm kiêu hãnh của người em gái.

Nàng có tên Asia: nhưngngọn lửa là tên gọi nàng hay nhất
Cái tên chưa từng có, không có và muôn đời sẽ không có một ai.
Và anh hãy nhớ rằng muôn thuở nàng sẽ đứng trước mặt anh đây
Rằng tất cả chúng ta rồi sẽ chết
1913

Взгляните внимательно и если возможно – нежнее

Взгляните внимательно и если возможно -- нежнее.
И если возможно -- подольше с нее не сводите очей
Она перед вами-дитя с ожерельем на шее
И локонами до плечей.

В ней-все, что вы любите, все, что, летя вокруг света
Вы уже не догоните -- как поезда ни быстры.
Во мне говорят не влюбленность поэта
И не гордость сестры.

Зовут ее Ася: но лучшее имя ей -- пламя,
Которого не было, нет и не будет вовеки ни в ком.
И помните лишь, что она не навек перед вами.
Что все мы умрем...
1913





106. ANH XA LẠ MÀ KHÔNG HỀ XA LẠ

Anh xa lạ mà không hề xa lạ
Anh thân quen mà cả chẳng hề thân
Anh của em và không phải của em
Em về nhà, không nói “đi làm khách
Và em không nói “đi về nhà mình”.

Tình yêunhư bếp lửa cháy ngày đêm
Tình như chiếc nhẫnvật gì to lớn
Tình như bàn thờlớn lao ánh sáng
Và, Đức Chúa Trờichẳng mang ơn!
1918

Ты мне чужой и не чужой

Ты мне чужой и не чужой,
Родной и не родной,
Мой и не мой! Идя к тебе
Домой -- я "в гости" не скажу,
И не скажу "домой".

Любовь -- как огненная пещь:
А все ж и кольцо -- большая вещь,
А все ж и алтарь -- великий свет.
-- Бог -- не благословил!
1918



107. SCHONBRUNN*

Hơi thở đầu của mùa xuân dịu dàng
Trăng và đêm thật dịu êm, ấm áp.
Lại những giấc mơ, những dòng nước mắt
Trong lâu đài Schonbrunn hoàng hôn.

Có hình bóng của ai kia màu trắng
Đã từng cúi thấp, gục xuống trên bàn.
Lại những thở dài, lại cơn mê sảng
“Ở Paris… Mác-xây! Ngai vàng!…”

Những con chữ ùa ra từ giấy trắng
Là những đội quân. Vang tiếng kèn đồng…
Những giọt lệ từ bờ mi rơi xuống
Bờ môi thì thầm: “em lại cùng anh!”

Ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn
Đang dần tắt nhưng mà đêm sáng hẳn.
Có hình bóng của ai rất dữ tợn
Đã lớn trong lòng đường phố của đêm?

… Hoàng tử nước áo? Đấy là nhân vật!
Là quận công? Giấc mộng! Giữa mùa đông?
Không, chỉ là một ông vua bé nhất
“Hỡi bậc đế vương, hỡi đứa con!

Ta phóng nhanh, xích xiềng xa xôi lắm
Ta tự do. Chẳng hề có tù binh.
Con thấy chăng những ngọn lửa bập bùng?
Có nghe sông Seine dạt dào vỗ sóng?”

Chiếc áo choàng của cha sao mà rộng!
Ngựa phóng như bay, ngọn lửa bập bùng.
“Có tiếng gì ầm ĩ trong rừng rậm?
Biển chăng?” – “Những người lính đó con!”

Ô cha ơi, sao mà cha cháy lên!
Cha hãy liếc nhìn sang bờ bên phải
Thiên đường chăng?” – “Là Paris đấy!”
“Còn trên Paris?” – “Là sự vinh quang”.

Điện Tuileries trong ánh sáng huy hoàng
Những lá cờ đang tung bay trong gió.
“Giờ hãy trị vì! Con từng đau khổ!
Chào con trai hoàng đế Napoleon!”

Những chiếc trống, âm thanh những dây đàn
Tất cả trong hoa… Con trẻ đều hoan hỉ
Schonbrunn ngủ. Tất cả đều lặng lẽ.
Có ai người đang khóc dưới ánh trăng.
___________
*Schonbrunn cung điện hoàng đế ở Viên (Áo) được xây dựng từ năm 1750 có vườn hoa, đài phun nước đẹp nổi tiếng. Tại đây năm 1805 Napoleon ký hiệp ước trung lập với nước Phổ và năm 1809 là nơi ký hiệp ước hoà bình, kết thúc chiến tranh Pháp - Áo. Nước áo đồng ý nhường một số đất đai cho Pháp, cắt quan hệ ngoại giao với Anh và giảm quân đội… Những điều kiện của hiệp ước năm 1809 bị Quốc hội Áo huỷ bỏ năm 1814-1815.

В Шенбрунне

Нежен первый вздох весны,
Ночь тепла, тиха и лунна.
Снова слезы, снова сны
В замке сумрачном Шенбрунна.

Чей-то белый силуэт
Над столом поникнул ниже.
Снова вздохи, снова бред:
"Марсельеза! Трон!.. В Париже..."

Буквы ринулись с страниц,
Строчка -- полк. Запели трубы...
Капли падают с ресниц,
"Вновь с тобой я!" шепчут губы.

Лампы тусклый полусвет
Меркнет, ночь зато светлее.
Чей там грозный силуэт
Вырос в глубине аллеи?

...Принц австрийский? Это роль!
Герцог? Сон! В Шенбрунне зимы?
Нет, он маленький король!
-- "Император, сын любимый!

Мчимся! Цепи далеки,
Мы свободны. Нету плена.
Видишь, милый, огоньки?
Слышишь всплески? Это Сена!"

Как широк отцовский плащ!
Конь летит, огнем объятый.
"Что рокочет там, меж чащ?
Море, что ли?" -- "Сын, -- солдаты!"

-- "О, отец! Как ты горишь!
Погляди, а там направо, --
Это рай?" -- "Мой сын -- Париж!"
-- "А над ним склонилась?" -- "Слава".

В ярком блеске Тюилери,
Развеваются знамена.
-- "Ты страдал! Теперь цари!
Здравствуй, сын Наполеона!"

Барабаны, звуки струн,
Все в цветах.. Ликуют дети...
Всe спокойно. Спит Шенбрунн.
Кто-то плачет в лунном свете.



108. LY BIỆT

Vẫn phóng như xưa con ngựa của anh
Trên công viên, trong giờ đã muộn
Nhưng con tim khóc, trong tim chiếc bóng
Hoàng tử của em, cậu bé của em.

Một giọng nói thì thầm bên tai em:
“Chớ mang ách của một cơn mơ mộng!”
Trước ly biệt của muôn đời bí ẩn
Hãy nhận về lời xin lỗi của em.

Về con Chúa Trời em viết những dòng
Chàng muôn thuở trẻ trung và sáng sủa
Mua ban ngày của Golgotha* bất tử
Golgotha của anh – cung điện Schonbrunn.

Những cây chuông vang lên bên tai em
Rửa tội cho anh bằng lời của Chúa…
Em đã từng trao cho anh nhiều quá!
Em đã từng trao nhiều quá cho anh!

Và bây giờ linh hồn em bình yên
Đừng xáo động bằng những lời trách cứ…
Vĩnh biệt nhé, nỗi buồn người lính cũ
Con đại bàng sau trận đánh bị thương!

Anh đã là cơn mê sảng của em
Là giấc mơ không bao giờ còn nữa…
Chàng quận công tóc sáng, thôi chào nhé
Vĩnh biệt chàng, tình yêu lớn của em!
_____________
*Golgotha – tiếng Do Thái nghĩa là sọ dừa, ngọn đồi ở ngoại ô Jerusalem, nơi đóng đinh Chúa Giê-su Christ trên cây thập tự.

Pасставание

Твой конь, как прежде, вихрем скачет
По парку позднею порой...
Но в сердце тень, и сердце плачет,
Мой принц, мой мальчик, мой герой.

Мне шепчет голос без названья:
-- "Ах, гнета грезы -- не снести!"
Пред вечной тайной расставанья
Прими, о принц, мое прости.

О сыне Божьем эти строфы:
Он, вечно-светел, вечно-юн,
Купил бессмертье днем Голгофы,
Твоей Голгофой был Шенбрунн.

Звучали мне призывом Бога
Твоих крестин колокола...
Я отдала тебе -- так много!
Я слишком много отдала!

Теперь мой дух почти спокоен,
Его укором не смущай...
Прощай, тоской сраженный воин,
Орленок раненый, прощай!

Ты был мой бред светло-немудрый,
Ты сон, каких не будет вновь...
Прощай, мой герцог светлокудрый,
Моя великая любовь!



109. THƠ MỘ CHÍ

Cho người nằm dưới hoa cỏ mùa xuân
Xin Chúa tha ý nghĩ xấu, lỗi lầm!
Người này đã từng đớn đau, phờ phạc
Yêu tiếng cười con trẻ với thiên thần.

Không đuổi sao của tuyết tử đinh hương
Dù đã từng mong vượt qua Chúa tể…
Trong lầm lỗi là đứa bé dịu dàng
Xin Chúa tha thứ cho người, vì thế!

Variant:
Cho kẻ đang nằm dưới hoa cỏ mùa xuân
Xin Chúa tha thứ cho lỗi lầm và điều ác ý!
Ông không người ở đây và đau ốm đã từng
Đã yêu các thiên thần và tiếng cười con trẻ.

Không vò nát ngôi sao của tử đinh hương trắng xóa
Dù ông vẫn từng mong với Chúa tể đấu tranh…
Trong tất cả lỗi lầm – ông từng là đứa trẻ dịu dàng

Và bởi thế, hãy tha thứ cho ông, xin lạy Chúa!

Эпитафия

Тому, кто здесь лежит под травкой вешней,
Прости, Господь, злой помысел и грех!
Он был больной, измученный, нездешний,
Он ангелов любил и детский смех.

Не смял звезды сирени белоснежной,
Хоть и желал Владыку побороть...
Во всех грехах он был - ребенок нежный,
И потому - прости ему, Господь!



110. SỰ THẬT

Vitam impendere vero*

Đời mệt mỏi trút hơi thở ngượng ngùng
Ngọn gió hồng tỏa ra cơn bất tỉnh
Ta cách trở đâu tại người, mà bóng
Con tim của em, cậu bé của em!

Khoác màn sương, nhô cao những bức tường
Mặt trời uể oải buông trên ngọn giáo…
Anh ở đâu, buổi chiều em lạnh quá
Con tim của em, cậu bé của em?

Anh không nghe. Đến sát những bức tường
Tất cả tối om, nhập vào tất cả
Chưa từng có và sẽ không thay thế
Con tim của em, cậu bé của em!
1910
_________
*Trao đời vì sự thật (tiếng Latinh).

Правда

Vitam impendere vero.

Мир утомленный вздохнул от смятений,
Розовый вечер струит забытье...
Нас разлучили не люди, а тени,
Мальчик мой, сердце мое!

Высятся стены, туманом одеты,
Солнце без сил уронило копье...
В мире вечернем мне холодно. Где ты,
Мальчик мой, сердце мое?

Ты не услышишь. Надвинулись стены,
Все потухает, сливается все...
Не было, нет и не будет замены,
Мальчик мой, сердце мое!
1910



111. QUÍ BÀ ĐÊM GIÁNG SINH

Con lừa xám của bà đang chạy thẳng
Không sợ gì vực thẳm, chẳng sợ sông.
Hỡi quí bà đêm giáng sinh dễ thương
Hãy đem tôi theo cùng vào mây trắng!

Tôi sẽ kiếm bánh mỳ cho lừa con
(Tôi nhẹ nhàng! Không nhìn, nghe cũng chẳng).
Tôi không mang đ chơi lên trời xanh
Hãy đem tôi theo cùng vào mây trắng!

Từ trong kho, mẹ thiu thiu, mơ mộng
Tôi sẽ tìm bình sữa cho lừa con.
Hỡi quí bà đêm giáng sinh dễ thương
Hãy đem tôi theo cùng vào mây trắng!

Рождественская дама

Серый ослик твой ступает прямо,
Не страшны ему ни бездна, ни река...
Милая Рождественская дама,
Увези меня с собою в облака!

Я для ослика достану хлеба,
(Не увидят, не услышат, - я легка!)
Я игрушек не возьму на небо...
Увези меня с собою в облака!

Из кладовки, чуть задремлет мама,
Я для ослика достану молока.
Милая Рождественская дама,
Увези меня с собою в облака!


 

112. KHÔNG RỜI NHAU TRÊN MỘT CON ĐƯỜNG

Anh đứng bên cánh cửa xách cái túi
Một nỗi buồn trên gương mặt của anh!
Anh có muốn, khi còn chưa muộn màng
Ta cùng đọc một bài thơ lần cuối.

Hãy cứ đ cho giọng chung nhắc lại
Cho đến bay giờ thì vẫn lời chung
Nhưng đã vỡ ra hai mảnh con tim
Và con đường chung bây giờ hai nẻo.

Trên dương cầm chưa muộn màng đến nỗi
Như ngày xưa, hãy buông xuống mái đầu
Hai nụ cười và hai nỗi buồn đau
Cùng hát lên câu giã từ lần cuối.

Đã đến lúc! Buộc những hộp các tông
Tấm khăn choàng đã từ lâu buộc chặt
Xin Chúa giữ gìn lời anh thánh thót
Và trí thông minh 16 tuổi xanh!

Khi ở trên rừng và khi trên đồng
Trong sao sáng cả bầu trời đứng lặng
Hai kẻ từng không rời nhau hai hướng
Hai con tàu về phía trước lao nhanh.

Неразлучной в дорогу

Стоишь у двери с саквояжем.
Какая грусть в лице твоем!
Пока не поздно, хочешь, скажем
В последний раз стихи вдвоем.

Пусть повторяет общий голос
Доныне общие слова,
Но сердце на два раскололось.
И общий путь - на разных два.

Пока не поздно, над роялем,
Как встарь, головку опусти.
Двойным улыбкам и печалям
Споем последнее прости.

Пора! завязаны картонки,
В ремни давно затянут плед...
Храни Господь твой голос звонкий
И мудрый ум в шестнадцать лет!

Когда над лесом и над полем
Все небеса замрут в звездах,
Две неразлучных к разным долям
Помчатся в разных поездах.


113. ĐÊM VŨ HỘI ĐẦU TIÊN

Đêm vũ hội đầu tiêntự dối lòng!
Giống như chương đầu tiên trong cuốn truyện
Vì nhầm lẫn đã trao cho trẻ con
Rồi đi đòi hỏi, hãy còn quá sớm.

Như cầu vồng ánh trong đài phun nước
Anh, đêm vũ hội đầu tiên – tự dối lòng
Anh giống như bùa hộ mệnh phương Đông
Như chiến công trong thơ nhà thơ Pháp*.

Như ngọn lửa xuyên qua màn sương hồng
Trên màn ảnh những bóng hình pha tạp…
Đêm vũ hội đầu tiên – tự dối lòng!
Vết thương lòng không thể liền da được!
___________
*Edmond Rostand (1868-1918) – nhà văn, nhà thơ Pháp.

Первый бал

О, первый бал — самообман!
Как первая глава романа,
Что по ошибке детям дан,
Его просившим слишком рано,

Как радуга в струях фонтана
Ты, первый бал, — самообман.
Ты, как восточный талисман,
Как подвиги в стихах Ростана.

Огни сквозь розовый туман,
Виденья пестрого экрана…
О, первый бал — самообман!
Незаживающая рана!



114. TÔI VIẾT TẶNG NHỮNG DÒNG THƠ NÀY

Tôi viết tặng những dòng thơ này
Cho những ai đào cho tôi ngôi mộ.
Người ta đem che đi vầng trán cao
Vàng trán của tôi giận dữ.

Tôi thay đổi không cần
Với một vành hoa trên trán
Tôi xa lạ với con tim mình
Sẽ nằm trong mồ im lặng.

Trên gương mặt tôi người ta chẳng nhìn
“Tôi nghe ra, tôi nhìn ra tất cả!
Trong mộ tôi vẫn phật lòng
Như tất cả”.

Trông áo quần thời bé – màu tuyết trắng
Màu chẳng dễ thương!
Tôi sẽ nằm – và có ai bên cạnh
Đến năm tháng cuối cùng.

Tôi chẳng nghe theo đâu! Hãy nghe đây
Đấy là cạm bẫy
Đừng đặt tôi vào trong đất đai
Đừng đặt tôi vào như vậy.

Tôi biết rằng tất cả sẽ bị thiêu!
Nấm mồ không là nơi trú ẩn
Chẳng có gì tôi yêu
Hơn là cuộc sống.
1913

Посвящаю эти строки

Посвящаю эти строки
Тем, кто мне устроит гроб.
Приоткроют мой высокий,
Ненавистный лоб.

Изменённая без нужды,
С венчиком на лбу,
Собственному сердцу чуждой
Буду я в гробу.

Не увидят на лице:
«Всё мне слышно! Всё мне видно!
Мне в гробу ещё обидно
Быть как все».

В платье белоснежном — с детства
Нелюбимый цвет! —
Лягу — с кем-то по соседству? —
До скончанья лет.

Слушайте! — Я не приемлю!
Это — западня!
Не меня опустят в землю,
Не меня.

Знаю! — Всё сгорит дотла!
И не приютит могила
Ничего, что я любила,
Чем жила.
1913




115. GỬI NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI CÂY HOA TRÀ

Con đường của em sáng ngời gian phòng ác
Margarita, người ta xét đoán em.
Em có lỗi gì? Lỗi lầm thân xác!
Còn tâm hồn, em gìn giữ tiết trinh.

Với người này, người kia, tất cả
Em mỉm cười, với tất cả gật đầu.
Và cái cười nửa miệng này đau khổ
Cho thân mình em khóc đã từ lâu.

Ai hiểu em? Bàn tay ai giúp đỡ?
Tất cả chỉ cần đắm đuối mê hồn!
Mãi mãi chỉ chờ vòng tay rộng mở
Mãi mãi chỉ chờ: “Anh khát khao em!”

Ngày và đêm những thú nhận dối gian…
Ngày và đêm rồi ngày mai lại nữa!
Đã nói ra những lời rất hùng hồn
Ánh mắt của em tối tăm, đau khổ.

Ngày mỗi chặt cái vòng vây nguyền rủa
Số phận trả thù tiên nữ trần gian…
Một cậu bé với nụ cười con trẻ
Nhìn gương mặt em và cảm thấy buồn.

Ôi tình yêu! Tình cứu độ thế gian
Chỉ trong tình có chở che, cứu rỗi.
Tất cả trong tình. Em hãy ngủ bình an
Tất cả trong tình… Em đã yêu và cứu rỗi!

Даме с камелиями

Все твой путь блестящей залой зла,
Маргарита, осуждают смело.
В чем вина твоя? Грешило тело!
Душу ты -- невинной сберегла.

Одному, другому, всем равно,
Всем кивала ты с усмешкой зыбкой.
Этой горестной полуулыбкой
Ты оплакала себя давно.

Кто поймет? Рука поможет чья?
Всех одно пленяет без изъятья!
Вечно ждут раскрытые объятья,
Вечно ждут: "Я жажду! Будь моя!"

День и ночь признаний лживых яд...
День и ночь, и завтра вновь, и снова!
Говорил красноречивей слова
Темный взгляд твой, мученицы взгляд.

Все тесней проклятое кольцо,
Мстит судьба богине полусветской...
Нежный мальчик вдруг с улыбкой детской
Заглянул тебе, грустя, в лицо...

О любовь! Спасает мир -- она!
В ней одной спасенье и защита.
Всe в любви. Спи с миром, Маргарита...
Всe в любви... Любила -- спасена!



116. TRÁI TIM VÀ TÂM HỒN

Hồn trong tanhững gian phòng dành cho khách hiếm
Những người biết cây trong nhà kính đẹp tuyệt vời.
Rong những phòng này những chiếc bóng dịu dàng nghỉ ngơi
Những chiếc bóng khác nhau sau những chặng đường đau đớn.

Con tim ta là những trai phòng chật chội.
Trong đó giữ một tù nhân cho đén phút xuống mồ.
Trong trai phòng của em giam cầm cho đến cuối
Anh thân yêu, anh chẳng có bạn bè!

Сердца и души

Души в нас - залы для редких гостей,
Знающих прелесть тепличных растений.
В них отдыхают от скорбных путей
Разные милые тени.

Тесные келейки - наши сердца.
В них заключенный один до могилы.
В келью мою заточен до конца
Ты без товарища, милый!


 

117. ANH SINH RA LÀ THIẾU SINH QUÂN

Anh sinh ra là thiếu sinh quân, là ca sĩ.
Còn em – trong mái tóc có vàng.
Ta còn trẻ trung và ta đi kể
Về những bậc đế vương.

Ta sẽ cùng lên dây những cây đàn
Kể về màu vàng những con đường tháng chín
Thái độ của những ông vua với ngai vàng
Thật là kinh tởm.

Đó là con quỉ tự vệ cho mình
Vẻ trang nghiêm làm cho những nhà vua tức giận
Ông vua của em không bằng lòng vương miện
Cũng giống như nhà vua của anh.

Ta uổng phí đứng trước mặt những bậc đế vương
Ta trải dài ra vào trong đất bụi
Và những nhà vua kia đã không hiểu nổi
Rằng chúng là những bậc đế vương.
1913

Вы родились певцом и пажем

Вы родились певцом и пажем.
Я — с золотом в кудрях.
Мы — молоды, и мы ещё расскажем
О королях.

Настроив лютню и виолу,
Расскажем в золоте сентябрьских аллей,
Какое отвращение к престолу
У королей.

В них — демон самообороны,
Величия их возмущает роль, —
И мой король не выдержит корону;
Как ваш король.

Напрасно перед их глазами
Мы простираемся в земной пыли, —
И — короли — они не знают сами,
Что — короли!
1913



118. TRĂNG NON

Mảnh trăng non hiện ra trên đồng cỏ
Trên những mép bờ hoa cỏ đầy sương.
Người xa lạ, người dưng rất dễ thương
Hãy đến đây, ngươi sẽ là bạn nhé.

Ngày tôi im lặng, ngày tôi ẩn náu
Trăng giữa trời xanh, sức lực đâu còn!
Trong những đêm này dưới ánh trăng thanh
Tôi khao khát một bờ vai yêu dấu.

Không tự hỏi mình: “người ấy là ai?”
Những bờ môi sẽ nói ra tất cả!
Chỉ ban ngày những vòng tay thô lỗ
Chỉ ban ngày khí tiết đến buồn cười.

Chỉ ban ngày mệt như quỉ, rã rời
Với nụ cười trên môi tôi nằm nghỉ.
Còn đêm… một người dưng, thương thế!
Trăng lưỡi liềm đã mọc ở giữa trời.
1909

Новолунье

Новый месяц встал над лугом,
Над росистою межой.
Милый, дальний и чужой,
Приходи, ты будешь другом.

Днем — скрываю, днем — молчу.
Месяц в небе, — нету мочи!
В эти месячные ночи
Рвусь к любимому плечу.

Не спрошу себя: «Кто ж он?»
Все расскажут — твои губы!
Только днем объятья грубы,
Только днем порыв смешон.

Днем, томима гордым бесом,
Лгу с улыбкой на устах.
Ночью ж… Милый, дальний… Ах!
Лунный серп уже над лесом!
1909




119. KHÔNG! HÃY CÒN CƠN ĐÓI CỦA TÌNH

Không! Hãy còn cơn đói của tình
Chưa làm cho bờ môi mở rộng.
Rất dịu dàngvì thế mà trẻ trung
Rất dịu dàngvì thế mà trống rỗng.

Nhưng than ôi! Cái miệng trẻ con này
Lại là những cánh hoa hồng Shiraz!
Và tất cả thói muốn ăn thịt người
Vẫn đang còn lăm le giơ nanh vuốt.
1917

Нет! Еще любовный голод

Нет! Еще любовный голод
Не раздвинул этих уст.
Нежен — оттого что молод,
Нежен — оттого что пуст.

Но увы! На этот детский
Рот — Шираза лепестки! —
Все людское людоедство
Точит зверские клыки.
1917
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét