19. HẠNH PHÚC
– “Em trước đây chỉ yêu mỗi hoa hồng
Trong tóc em giờ có
vòng hoa khác.
Em đã đổi thay đam
mê màu sắc?”
– “Là bởi vì anh
đó, anh của em!”
“Trong tháng tư anh
cần hoa linh lan
Còn tháng năm anh
dùng chân giẫm nát.
Em đã thầm thì gì
trong lời đáp?”
– “Là bởi vì anh
đó, anh của em!”
“Anh đây vốn yêu lục
lạc – chuông con
Và anh sẵn sàng làm
tên đầy tớ
Sao em giật hoa của
mình lặng lẽ?”
– “Là bởi vì anh
đó, anh của em!”
Счастье
— «Ты прежде лишь розы ценила,
В кудрях твоих венчик другой.
Ты страстным цветам изменила?»
— «Во имя твоё, дорогой!»
— «Мне ландышей надо в апреле,
Я в мае топчу их ногой.
Что шепчешь в ответ еле-еле?»
— «Во имя твоё, дорогой!»
— «Мне мил колокольчик-бубенчик,
Его я пребуду слугой.
Ты молча срываешь свой венчик?»
— «Во имя твоё, дорогой!»
20. SAU NGÀY LỄ
Ngày hôm nay đôi mắt mẹ buồn ghê
Cả vú em, những đứa con đều sợ
Không nhìn vào chú lính chì đội mũ
Thậm chí không nhìn sang cả chú hề.
Đường ven của mẹ
hôm nay rất trong
Những vết xanh trên
những bàn tay nhỏ
Mẹ không giận vì
nĩa không sạch sẽ
Và hàm răng con trẻ
ngậm kẹo mềm.
Hôm nay mẹ không kể
chuyện, hát lên
Vẻ tái nhợt, má lạnh
lùng hơn trước
Thậm chí không muốn
ánh mắt trung thực
Nhìn sang cô con
gái nhỏ của mình.
После праздника
У мамы сегодня печальные глазки,
Которых и дети и няня боятся.
Не смотрят они на солдатика в каске
И даже не видят паяца.
У мамы сегодня прозрачные жилки
Особенно сини на маленьких ручках.
Она не сердита на грязные вилки
И детские губы в тянучках.
У мамы сегодня ни песен, ни сказки,
Бледнее, чем прежде, холодные щёчки,
И даже не хочет в правдивые глазки
Взглянуть она маленькой дочке.
21. SAU KHI KHÁCH RA VỀ
Khách đã ra về. Từ đằng xa
Vang lên tiếng than
phiền từ cánh cổng.
Một nốt nhạc buồn
và nản…
Khi khách đã ra về.
Mẹ tháo đôi bông
tai – vì sao?
Và vòng đeo tay mẹ
cởi
Mẹ giấu kẹo vào
trong tủ nhỏ
Như nhà tù.
Nội thất màu đỏ, niềm
vui của con thơ
Mẹ đem trùm lên áo
phủ
Điều này bao giờ
cũng thế
Sau khi khách ra về!
После гостей
Вот и уходят. Запели вдали
Жалобным скрипом ворота.
Грустная, грустная нота...
Вот и ушли.
Мама сережки сняла, - почему?
И отстегнула браслеты,
Спрятала в шкафчик конфеты,
Точно в тюрьму.
Красную мебель, отраду детей,
Мама в чехлы одевает...
Это всегда так бывает
После гостей!
22. DÁNG ĐI CỦA TÔI THẬT NHẸ NHÀNG
Dáng đi của tôi thật nhẹ nhàng
Là dấu hiệu của lương tâm trong sáng
Dáng đi của tôi thật nhẹ nhàng
Là bài ca của tôi luôn vang vọng.
Và Chúa Trời đã đặt tôi một mình
Một mình tôi giữa trần gian bát ngát.
- Ngươi không phải đàn bà, ngươi là chim
Và bởi thế - hãy bay và hãy hát.
1918
Поступь лёгкая моя
Поступь лёгкая моя,
— Чистой совести примета —
Поступь лёгкая моя,
Песня звонкая моя —
Бог меня одну поставил
Посреди большого света.
— Ты не женщина, а птица,
Посему — летай и пой.
23. TÔI LÀ TRANG GIẤY CHO NGÒI BÚT CỦA NGƯỜI
Tôi là trang giấy cho ngòi bút của Người
Nhận tất cả về mình. Tôi là trang giấy trắng
Là kẻ gìn giữ cho Người tài sản
Rồi trăm lần hơn trả lại cho đời.
Tôi là làng, là đất đen tốt tươi
Người với tôi – là mưa, là tia nắng
Tôi chỉ là đất đen, là giấy trắng
Còn Người – Ông hoàng, Ông chủ của tôi!
1918
Я — страница твоему перу
Я — страница твоему перу.
Всё приму. Я белая страница.
Я — хранитель твоему добру:
Возращу и возвращу сторицей.
Я — деревня, чёрная земля.
Ты мне — луч и дождевая влага.
Ты — Господь и Господин, а я —
Чернозём — и белая бумага!
1918
24. KHỐN KHỔ CHO AI MẠNH MẼ GIÀU SANG
Khốn khổ cho ai mạnh mẽ, giàu sang
Đôi bờ vai sang giàu luôn trĩu nặng.
Còn tôi đây đứng trước người lính trận
Đôi con mắt tôi sáng chẳng hề buông.
Thành phố bạo hành và thổn thức lên
Vầng trăng nằm trong đám mây màu rượu
Còn tôi đây chẳng bị ai quấy nhiễu
Tôi vô cùng kiêu hãnh và đáng thương.
Плохо сильным и богатым
Плохо сильным и богатым,
Тяжко барскому плечу.
А вот я перед солдатом
Светлых глаз не опущу.
Город буйствует и стонет,
В винном облаке - луна.
А меня никто не тронет:
Я надменна и бедна.
25. MÈO
Khi mèo đến với ta, thì khi đó
Trong mắt ta còn
chưa rõ niềm đau.
Nhưng nỗi đau không
còn – mèo biến mau
Trái tim mèo không
biết gì xấu hổ!
Thật buồn cười, phải
vậy không, thi sĩ
Chúng được nuôi, dạy
để thành mèo nhà
Nhưng bỏ chạy, phận
tôi tớ không ưa
Trái tim mèo không
biết làm nô lệ!
Dù ai mời gọi, dù
ai dụ dỗ
Dù được nuôi trong ấm
cúng, đủ đầy
Hở một giây là theo
bản năng ngay
Trong tim mèo tình
yêu không hề có!
1911
Кошки
Они приходят к нам, когда
У нас в глазах не видно боли.
Но боль пришла — их нету боле:
В кошачьем сердце нет стыда!
Смешно, не правда ли, поэт,
Их обучать домашней роли.
Они бегут от рабской доли:
В кошачьем сердце рабства нет!
Как ни мани, как ни зови,
Как ни балуй в уютной холе,
Единый миг — они на воле:
В кошачьем сердце нет любви!
26. NẾU NHƯ HẠNH PHÚC GÕ CỬA
Nếu như hạnh phúc gõ cửa
Sau vài năm hoặc bây giờ
Thì lời “hãy bước vào đi”
Tôi sẽ không trả lời với nó!
Nếu hạnh phúc cần đến tôi
Thì cứ việc đóng băng bên cửa sổ
Cứ để cho lỗi lầm của người nào đó
Sẽ xứng đáng với cuộc gặp gỡ này.
Nếu như giọng của hạnh phúc êm ái
Nếu như lời của nó giống như thơ
Với vẻ dịu dàng của giọt nước mưa
Đập vào trên mái –
Tôi nghĩ: “Không hề mạnh mẽ
Những âm thanh này, đấy là mưa
Bay đến từ những khu rừng tăm tối”.
Tôi đây chẳng cần nghe!
Nếu giọng của hạnh phúc kiêu căng
Như một hợp âm khi vào trận
Nếu giọng này vững chắc và mạnh
Như địa ngục đầy quyền hành –
Tôi sẽ nói: “Mi là con thú tìm nạn nhân
Đang lao vào cánh cửa!
Những điều khủng
khiếp này, hãy nhớ
Ta đây sẽ không cần!”
(Chưa kết thúc).
Если счастье стукнет в дверь
Если счастье стукнет в дверь,
Через годы иль теперь,
Я «войди» ему, поверь,
Не отвечу!
Если счастью я нужна,
Пусть померзнет у окна,
Пусть заслужит (чья вина?)
Эту встречу.
Если счастья голос тих,
Если речь его, как стих
Лаской каплей дождевых
Бьется в крышу, —
Я подумаю: «Не мощь
В этих звуках; это дождь
Прилетел из темных рощ».
Не расслышу!
Если счастья голос горд,
Как воинственный аккорд,
Если мощен он и тверд
Властью ада, —
Я скажу ему: «Ты зверь,
Ты на жертву рвешься в дверь!
Этих ужасов, поверь,
Мне не надо!»
(Не окончено).
27. EM MUỐN ĐƯỢC SỐNG CÙNG ANH
Em muốn được sống cùng anh
Ở một thành phố nhỏ
Ở đó có hoàng hôn muôn thuở
Và muôn thuở tiếng chuông ngân.
Và trong phòng nghỉ
ở nông thôn
Có tiếng ngân vang
thanh nhẹ
Của chiếc đồng hổ cổ
- như những giọt thời gian.
Và đôi khi trong những
buổi chiều tàn
Từ gác xép nào đó
vang lên tiếng sáo
Và người thổi sáo
ngồi bên cửa sổ
Và những bông tuy
líp thật to trên cửa nọ
Và có thể là, dù
anh chẳng yêu em…
Một bếp lò to đặt
chính giữa căn phòng
Trong mỗi ô của bếp
lò có một bức tranh
Vẽ hoa hồng – trái
tim – con tàu nhỏ
Còn bên ngoài khung
cửa sổ
Tuyết và tuyết
giăng màn.
Anh nằm đó – em yêu
tư thế này của anh:
Lười nhác, vô tâm,
hờ hững.
Có tiếng tí tách
thi thoảng
Của những que diêm.
Điếu thuốc lá cháy
lên rồi tàn
Và run rẩy thật lâu
bên rìa mép
Mẩu tàn ngắn và có
màu xám ngắt.
Anh lười nhác không
muốn gạt tro tàn
Để cả điều thuốc
bay vào trong bếp.
1916
Я бы хотела жить с Вами
…Я бы хотела жить с Вами
В маленьком городе,
Где вечные сумерки
И вечные колокола.
И в маленькой деревенской гостинице —
Тонкий звон
Старинных часов — как капельки времени.
И иногда, по вечерам, из какой-нибудь мансарды —
Флейта,
И сам флейтист в окне.
И большие тюльпаны на окнах.
И может быть, Вы бы даже меня любили…
Посреди комнаты — огромная изразцовая печка,
На каждом изразце — картинка:
Роза — сердце — корабль. —
А в единственном окне —
Снег, снег, снег.
Вы бы лежали — каким я Вас люблю: ленивый,
Равнодушный, беспечный.
Изредка резкий треск
Спички.
Папироса горит и гаснет,
И долго-долго дрожит на ее краю
Серым коротким столбиком — пепел.
Вам даже лень его стряхивать —
И вся папироса летит в огонь.
28. VÔ KHỐI NGƯỜI ĐẸP CÒN ANH MỘT MÌNH
Vô khối người đẹp, còn anh một mình
Trước một trăm ba mươi nàng Các-men
Và mỗi người giữ bông hoa trên miệng
Và mỗi người đòi hỏi vai của mình.
Những mắt lấp lánh và lời tỏ tình
Trên môi hồng, niềm đam mê như thế
Với lông thú, nước hoa, hồn nhiên tất cả
Tất cả đều là những kẻ tài năng.
Đèn sáng quanh những đôi mắt trẻ trung
Nhưng màn buông và vang lên tiếng sấm
Trong lụa thơm những
dáng hình thanh mảnh
Và có người nào đó
hôn tay anh.
Từ thiên tài, những
gương mặt hóa trang
Vào quán rượu và
say sưa nhìn ngắm!
Tiếng hò reo vào
lúc ba giờ sáng
Trán đung đưa và
nói: Hãy yêu em!
Как много красавиц, а ты – один
Как много красавиц, а ты - один,
Один - против ста тридцати Кармен,
И каждая держит цветок в зубах,
И каждая просит - роли.
У всех лихорадка в глазах и лесть
На красных губах, и такая страсть
К мехам и духам, и невинны все,
И все они - примадонны.
Вся каторга рампы - вокруг юных глаз.
Но занавес падает, гром гремит,
В надушенный шелк окунулся стан,
И кто-то целует руки.
От гения, грима, гримас, грошей -
В кабак, на расправу, на страстный смотр!
И возглас в четвертом часу утра,
С закинутым лбом: - Любите!
29.ANH ĐI VỀ NHỮNG XỨ SỞ XA XĂM
Anh đi về những xứ sở xa xăm
Con tim rồi giá
băng. Đây không thế.
Người Ru-ma-ni, đường
lầy, bình minh
Là bạn đồng hành của
anh rất trẻ…
Có ai đã vứt hoa hồng
trên tuyết?
Không, đấy chỉ là vỏ
quýt thôi mà…
Anh bây giờ quay cuồng
trong đầu óc:
Biển – cái chết –
điệu nhảy – Marina…
1918
Уедешь в дальние края
Уедешь в дальние края,
Остынешь сердцем. - Не остыну.
Распутица - заря - румыны -
Младая спутница твоя...
Кто бросил розы на снегу?
Ах, это шкурка мандарина...
И крутятся в твоем мозгу:
Мазурка - море - смерть - Марина...
30. TÊN MARINA TRÊN DAO GĂM CỦA MÌNH
Tên Marina trên dao
găm của mình –
Anh đã khắc, ra trận
vì Tổ quốc.
Em là người đầu
tiên và duy nhất
Trong cuộc đời tuyệt
đẹp của anh.
Em nhớ đêm và gương
mặt sáng trưng
Trong địa ngục của
toa tàu chở lính.
Em để mái tóc bay
trong gió thoảng
Giữ đôi cầu vai
trong chiếc tráp con.
1918
На кортике своём: Марина
На кортике своём: Марина —
Ты начертал, встав за Отчизну.
Была я первой и единой
В твоей великолепной жизни.
Я помню ночь и лик пресветлый
В аду солдатского вагона.
Я волосы гоню по ветру,
Я в ларчике храню погоны.
31. KẾT QUẢ TRONG NGÀY
Trong buổi tối tôi mỏi mệt biết bao!
Không hài lòng với mình và tất cả!
Tôi đã cười trong những lần gặp gỡ
Cười quá nhiều mà không hiểu vì sao.
Có quá nhiều câu hỏi thiếu khát khao
Câu trả lời phải trả bằng dòng lệ.
Nói, đoán mò rồi ai ai cũng thế
Mang theo mình mà chẳng biết về đâu.
Có quá nhiều mắt nhìn khi cúi đầu
Chuyện tầm phào trong ngôi nhà tháp gỗ.
Thêu những hoa văn chẳng ai cần cả.
Đấy tràng hoa,
thiên thần … Tại vì sao?
Chà, mệt mỏi! Những
giấc mơ của ta
Rất yếu đuối! Dù dễ
dàng thường lệ
Tôi đã có thể ra
đi, ẩn mình có thể…
Suốt ngày tôi phản
bội Chúa Kitô!
1906 – 1912
Итог дня
Ах, какая усталость под вечер!
Недовольство собою и миром и всем!
Слишком много я им улыбалась при встрече,
Улыбалась, не зная зачем.
Слишком много вопросов без жажды
За ответ заплатить возлиянием слёз.
Говорили, гадали, и каждый
Неизвестность с собою унёс.
Слишком много потупленных взоров,
Слишком много ненужных бесед в терему,
Вышивания бисером слишком ненужных узоров.
Вот гирлянда, вот ангел… К чему?
Ах, какая усталость! Как слабы
Наши лучшие сны! Как легка в обыденность ступень!
Я могла бы уйти, я замкнуться могла бы…
Я Христа предавала весь день!
32. Ở THIÊN ĐƯỜNG
Hoài niệm đang đè quá nặng trên vai
Tôi sẽ khóc về thiên đường mặt đất
Những lời cũ rồi trong ngày gặp mặt
Tôi sẽ chẳng giấu đi.
Nơi có thiên thần bay lượn thẳng hàng
Có dàn đồng ca, thụ cầm và hoa huệ
Nơi tất cả lặng yên, tôi sẽ không ngừng nghỉ
Tìm bắt ánh mắt anh.
Sẽ hộ tống cho tôi – tầm nhìn của thiên đường
Tôi một mình giữa những nàng tiên trinh nữ
Tôi sẽ hát lên, trần tục và xa lạ
Giai điệu của trần
gian!
Hoài niệm đang đè nặng
trên vai mình
Sẽ đến phút giây –
tôi chẳng che dòng lệ…
Chẳng đó, chẳng đây
– không cần gặp gỡ
Gặp gỡ đâu chỉ có
chốn thiên đường!
1906 – 1912
В раю
Воспоминанье слишком давит плечи,
Я о земном заплачу и в раю,
Я старых слов при нашей новой встрече
Не утаю.
Где сонмы ангелов летают стройно,
Где арфы, лилии и детский хор,
Где всё покой, я буду беспокойно
Ловить твой взор.
Виденья райские с усмешкой провожая,
Одна в кругу невинно-строгих дев,
Я буду петь, земная и чужая,
Земной напев!
Воспоминанье слишком давит плечи,
Настанет миг, — я слёз не утаю…
Ни здесь, ни там, — нигде не надо встречи,
И не для встреч проснёмся мы в раю!
33. CHIẾN THẮNG
Nhưng mà ta đang có chiếc chén thần
(Ngày buồn ngủ anh hãy dùng đến nó!)
Nhưng mà ta có nụ cười, và nữa
Có một điều bí mật tối tăm hơn.
Bóng Eurydice, đuốc Hecate đi cùng –
Tất cả thoáng qua rồi biến vào trong một.
Chiến thắng của ta là muôn đời muôn kiếp
Ta giàu có bằng một thứ rượu vang!
1906 – 1912
___________
* Eurydice – nữ thần trong thần thoại Hy Lạp, vợ của Orpheus; Hecate – cũng là một nữ thần trong thần thoại Hy Lạp.
Победа
Но и у нас есть волшебная чаша,
(В сонные дни вы потянетесь к ней!)
Но и у нас есть улыбка, и наша
Тайна темней.
Тень Эвридики и факел Гекаты, —
Всё промелькнёт, исчезая в одном.
Наша победа: мы вечно богаты
Новым вином!
34. CHẲNG NƠI NỌ, NƠI NÀY
Với thập ác sáng ngời
Chuông hát lời khen ngợi.
Tôi rùng mình và hiểu
“Cả nơi nọ, nơi này”.
Nụ cười đòi bờ môi
Còn hơn lời khen ngợi…
Tôi sai lầm có thể?
“Nơi nọ, không nơi này”.
Mặc thập ác sáng ngời
Chuông hát lời khen ngợi…
Tôi hiểu ra rất rõ:
“Chẳng nơi nọ, nơi này… “
1906 – 1912
Ни здесь, ни там
Опять сияющим крестам
Поют хвалу колокола.
Я вся дрожу, я поняла,
Они поют: «и здесь и там».
Улыбка просится к устам,
Ещё стремительней хвала…
Как ошибиться я могла?
Они поют: «не здесь, а там».
О, пусть сияющим крестам
Поют хвалу колокола…
Я слишком ясно поняла:
«Ни здесь, ни там… Ни здесь, ни там»…
35. CỎ MỘC TÊ VÀ HOA HỒNG
Hoa này đón chào, còn hoa kia có phần dọa dẫm
Những bông hoa đi thành hàng thành dãy sáng lên.
Buổi bình minh ta thề thốt chỉ bằng hoa hồng
Nhưng ta thở bằng cỏ mộc tê trong giờ chiều muộn.
Một người này trên đường bị hoa mimosa quyến rũ
Kẻ khác thì yêu hoa
linh lan lấp lánh trong sương. –
Nhưng ta chỉ thở bằng
hoa hồng trong buổi bình mình
Nhưng rồi bằng cỏ mộc
tê ta kết thúc tất cả!
1906 – 1912
_____________
*Thời La Mã cổ đại
hoa hồng tượng trưng cho điều bí mật. Trong thơ ca, hoa hồng là màu sắc, hình
dáng và hương thơm còn cỏ mộc tê thì chỉ có mùi hương. Hoa mimosa tượng trưng
cho sự rụt rè, nhút nhát; hoa linh lan luôn gắn liền với sự tinh khiết, sự dịu
dàng và lòng chung thủy.
Резеда и роза
Один маня, другой с полуугрозой,
Идут цветы блестящей чередой.
Мы на заре клянёмся только розой,
Но в поздний час мы дышим резедой.
Один в пути пленяется мимозой,
Другому ландыш мил, блестя в росе. —
Но на заре мы дышим только розой,
Но резедою мы кончаем все!
36. MỘT BỨC THƯ TRÊN TRANG GIẤY MÀU HỒNG
Trong một câu chuyện
cổ vùng sông Ranh
Nơi có nhân vật là
chàng trai buồn
Trong buổi tối muộn
màng chàng đem đốt
Một bức thư trên
trang giấy màu hồng.
Tôi như chàng hiệp
sĩ (nhưng mà không
Có cây bút, mũ sắt
hay thanh kiếm!)
Một bức thư trên
trang giấy màu hồng
Ngày hôm qua đem đốt
bằng ngọn nến.
Cùng với cờ chàng
đi vào trận chiến
Với tiếng cười và
nhiệt huyết trào dâng
Và chàng hạnh phúc
và chàng quên bẵng
Một bức thư trên
trang giấy màu hồng.
Bức thư nọ đã chết
trên ngọn lửa
Nhưng vẫn rì rào
theo mỗi bước chân
Một bức thư trên
trang giấy màu hồng
Mà giờ ở trong lòng
tôi vẫn giữ!
Dù chàng hiệp sĩ
trong câu chuyện cổ
Nỗi buồn của mình rồi
sẽ quên nhanh –
Còn tôi trong lòng
giờ đây vẫn giữ
Một bức thư trên
trang giấy màu hồng!
1906 – 1912
Письмо на розовой бумаге
В какой-то дальней рейнской саге
Печальный юноша-герой
Сжигает позднею порой
Письмо на розовой бумаге.
И я, как рыцарь (без пера,
Увы, без шлема и без шпаги!),
Письмо на розовой бумаге
На канделябре сжёг вчера.
Его в поход умчали флаги,
Фанфары смех и боя пыл,
И он, счастливый, позабыл
Письмо на розовой бумаге.
Оно погибло на огне,
Но шелестит при каждом шаге,
Письмо на розовой бумаге
Уж не на мне оно, — во мне!
Пусть забывает в дальней саге
Печальный рыцарь грусть свою, —
Ах, я в груди его таю,
Письмо на розовой бумаге!
37. ĐÊM CUỐI NĂM
Sẽ gặp người lạ dưới ánh sáng đèn
Ánh sáng đèn thủy chung và tĩnh lặng
Chỉ không cần cái thở dài thầm kín
Không thở dài về
anh!
Ánh sáng đèn mạnh mẽ
cũng không cần
Mà sẽ vặn cho ngọn
đèn nhỏ xuống.
Chỉ một điều ánh mắt
nhìn không ném
Không ánh mắt về
anh!
Cứ việc để cho xao
xuyến bâng khuâng
Ngỡ một năm như một
ngày ngắn ngủi!
Chỉ ý nghĩ về những
gì muôn thuở
Không ý nghĩ về
anh!
Một lần nữa lại trở
thành “chị em”
Để vui mừng ôm lấy
nhau, hớn hở
Chỉ không cần một lời
về quá khứ
Không một lời về
anh!
1906 – 1920
Под Новый год
Встретим пришельца лампадкой,
Тихим и верным огнем.
Только ни вздоха украдкой,
Ни вздоха о нем!
Яркого света не надо,
Лампу совсем привернем.
Только о лучшем ни взгляда,
Ни взгляда о нем!
Пусть в треволненье беспечном
Год нам покажется днем!
Только ни мысли о вечном,
Ни мысли о нем!
Станем «сестричками» снова,
Крепче друг к другу прильнем.
Только о прошлом ни слова,
Ни слова о нем!
38. MỘT NỬA Ô CỬA SỔ ĐÃ MỞ RA
Một nửa ô cửa sổ đã mở ra
Một nửa của tâm hồn đã mở.
Nào ta hãy mở luôn nửa kia
Và nửa kia cửa sổ!
1920
Одна половинка окна растворилась
Одна половинка окна растворилась.
Одна половинка души показалась.
Давай-ка откроем — и ту половинку,
И ту половинку окна!
39. THẬT NGỌT NGÀO – HAI NGƯỜI CHUNG MỘT NGỰA
Thật ngọt ngào – hai người chung một ngựa
Trên một thuyền – một con sóng trào dâng
Thật ngọt ngào – chung mẩu bánh cùng ăn –
Ngọt ngào nhất – là nằm chung một gối.
Сладко вдвоём — на одном коне
Сладко вдвоём — на одном коне,
В том же челне — на одной волне,
Сладко вдвоём — от одной краюшки —
Слаще всего — на одной подушке.
Thơ về Pyotr Efron
40. TÔI KHÔNG NGHĨ SUY
Tôi không nghĩ suy, không tranh luận, chẳng thở than
Không ngủ.
Tôi cũng chẳng ước mong
đến mặt trời, mặt trăng
đến tàu hay biển cả.
Tôi không cảm thấy như trong những bức tường nóng hổi
Hay như
xanh mướt ở trong vườn.
Từ lâu món
quà trông đợi, ước mong
Tôi không
còn chờ đợi.
Tôi không
vui vì buổi sáng hay tiếng kêu ầm ĩ
Của tàu
điện chạy vang lên
Tôi sống,
không thấy ngày, tôi lãng quên
Con số và
thế kỷ.
Cứ ngỡ như
trên dây thừng chắp nối
Tôi là
người nhảy múa tí hon
Tôi là
bóng của ai đấy. Tôi là người miên hành
Của hai
vầng trăng tối.
1914
Не думаю, не жалуюсь, не спорю
Не думаю, не жалуюсь, не спорю.
Не сплю.
Не рвусь
ни к солнцу, ни к луне, ни к морю,
Ни к кораблю.
Не чувствую, как в этих стенах жарко,
Как зелено в саду.
Давно желанного и жданного подарка
Не жду.
Не радует ни утро, ни трамвая
Звенящий бег.
Живу, не видя дня, позабывая
Число и век.
На, кажется, надрезанном канате
Я - маленький плясун.
Я - тень от чьей-то тени. Я - лунатик
Двух темных лун.
1914
41. CHIẾN TRANH, CHIẾN TRANH
Chiến tranh, chiến tranh! – Tiếng lắc của bình hương
Tiếng giày đinh thúc ngựa
Nhưng tôi chẳng quan tâm những tính toán của Sa-hoàng
Hay chuyện
người ta cãi cọ.
Cứ ngỡ như
trên dây thừng chắp nối
Tôi là
người nhảy múa tí hon
Tôi là
bóng của ai đấy. Tôi – người miên hành
Của hai
vầng trăng tối.
1914
Война, война!- Кажденья у киотов
Война, война!- Кажденья у киотов
И стрёкот шпор.
Но нету дела мне до царских счетов,
Народных ссор.
На кажется-надтреснутом канате
Я - маленький плясун.
Я - тень от чьей-то тени. Я - лунатик
Двух тёмных лун.
1914
42. BẠN THÂN YÊU VỀ BÊN KIA ĐẠI DƯƠNG
Bạn thân yêu về bên kia đại dương!
Hoa hồng cho anh –
hãy chìa tay nhận nó.
Bạn thân yêu, anh
mang theo một thứ
Quí nhất từ những
kho báu trần gian.
Tôi bị lừa, tôi bị
cướp sạch trơn
Trong ký ức chẳng
còn thư hay nhẫn!
Và tôi nhớ đôi con
mắt sâu hoắm
Đến muôn đời – trên
gương mặt ngạc nhiên.
Và tôi rất nhớ cái
vẻ cầu xin
Của ánh mắt van nài
– ngồi gần lại
Và nụ cười từ nơi rất
xa ngái
Vẻ tâng bốc của kẻ
đang chết dần…
Bạn thân yêu đi về
chốn vĩnh hằng
– Gò đất con giữa
bao nhiêu gò đất! –
Hãy cầu nguyện cho
tôi nơi cực lạc
Để sao cho thủy thủ
khác không còn.
1915
______________
*Loạt bài thơ Tôi không nghĩ suy; Chiến tranh, chiến tranh; Bạn thân yêu về bên kia đại dương; Từng con sóng cuộn
tròn bên tảng đá; Lá vàng rơi lả tả; Tôi đã từng gặp anh những ba lần viết về Pyotr Efron (1884 – 1914), – người tình, anh
trai của Sergei Efron, chồng của nữ thi sĩ.
Милый друг, ушедший дальше, чем за море
Милый друг, ушедший дальше, чем за море!
Вот Вам розы — протянитесь на них.
Милый друг, унесший самое, самое
Дорогое из сокровищ земных.
Я обманута и я обокрадена, —
Нет на память ни письма, ни кольца!
Как мне памятна малейшая впадина
Удивленного — навеки — лица.
Как мне памятен просящий и пристальный
Взгляд — поближе приглашающий сесть,
И улыбка из великого Издали, —
Умирающего светская лесть…
Милый друг, ушедший в вечное плаванье,
— Свежий холмик меж других бугорков! —
Помолитесь обо мне в райской гавани,
Чтобы не было других моряков.
43. TỪNG CON SÓNG CUỘN TRÒN BÊN TẢNG ĐÁ
Từng con sóng cuộn tròn bên tảng đá
Rồi tung ra và sủi
bọt, ngân vang
Một đứa bé –
Chỉ cho em ngôi biệt
thự của anh.
Rất vô tình, chầm
chậm những bước chân
– Bước bạo dạn xem
chừng không phải nhẽ -
Em bước chân đi và
em để ý
Nghe tiếng xạc xào
sỏi dưới bàn chân.
Tiếng cót két của
xe ngựa đi ngang
Một cánh buồm qua
màu xanh của lá
Đã lấp lánh hàng cột
màu trắng xóa
Của ban công.
Một vẻ tĩnh lặng
như thế đã từng
Như chỉ trong buổi
trưa tháng bảy
Em nhớ: hôm đó anh
nằm nghỉ
Trên chiếc ghế bện
dây thừng.
Ái chà – thế giới
này thô lỗ quá chừng!
Không đánh giá cao
tư thế đầy quyến rũ
Trên bờ môi của anh
– em nhớ
Có một bông hồng.
Và anh đã không ngẩng
đầu lên
Ra vẻ như đã từng
chán ngấy
Bằng cử chỉ này anh
cho thấy
Anh đã chìa bàn tay
cho em.
Chao ôi, đôi mắt đẹp
quá chừng
Ai nói rằng – tại
vì sao – nheo mắt
Ai bây giờ đang là
bão giông – anh đã biết –
Trong bầu trời xanh
như ngọc của em.
Tại vì mặt trời hoặc
vì cái nóng
Em ngỡ như màu hổ
phách cả khu vườn
Một người Tác-ta đã
bán áo choàng
Rồi sau đi khỏi hẳn…
Miệng của anh kiêu
căng và hấp dẫn
Và mím chặt – mọi
thứ đã rõ rành
Và mặt trời xuyên
qua bụi thường xuân
Ném ra từng chiếc
bóng.
Em nhớ lại: bên mép
rìa của ghế
Có chiếc mũ bện bằng
rơm của anh
Có tiếng ngân vang
của cồng chiêng
Và mùi nặng
Của những bông hoa
hồng đã chín
Và những nếp gấp của
vải rèm
Và câu chuyện của
chúng mình
Và tiếng kêu lẻng xẻng
Với những thứ mà
anh người sai khiến
Giũ tàn thuốc khỏi
hoa hồng
Và bộ đồ rất đẹp của
anh
Có màu rất sáng.
1914
Прибой курчавился у скал
Прибой курчавился у скал —
Протяжен, пенен, пышен, звонок...
Мне Вашу дачу указал —
Ребенок.
Невольно замедляя шаг
— Идти смелей как бы не вправе, —
Я шла, прислушиваясь, как
Скрежещет гравий.
Скрип проезжающей арбы,
Бег паруса. — Сквозь плющ зеленый
Блеснули белые столбы
Балкона.
Была такая тишина,
Как только в полдень и в июле.
Я помню: Вы лежали на
Плетёном стуле.
Ах, не оценят — мир так груб! —
Пленительную Вашу позу.
Я помню: Вы у самых губ
Держали розу.
Не подымая головы,
И тем подчёркивая скуку —
О, этот жест, которым Вы
Мне дали руку.
Великолепные глаза
Кто скажет — отчего — прищуря,
Вы знали — кто сейчас гроза
В моей лазури.
От солнца или от жары —
Весь сад казался мне янтарен;
Татарин продавал чадры,
Ушел татарин...
Ваш рот, надменен и влекущ,
Был сжат — и было все понятно,
И солнце сквозь тяжелый плющ
Бросало пятна.
Все помню: на краю шэз-лонг
Соломенную Вашу шляпу,
Пронзительно звенящий гонг,
И запах
Тяжелых, переспелых роз
И складки в парусинных шторах,
Беседу наших папирос,
И шорох,
С которым Вы, властитель дум,
На розу стряхивали пепел.
Безукоризненный костюм
Был светел.
1914
44. LÁ VÀNG RƠI LẢ TẢ
Lá vàng rơi lả tả
Trên mồ anh giữa gió lạnh mùa đông
Hãy lắng nghe này người yêu đà yên nghỉ
Anh, dù sao cũng vẫn là của em.
Anh hãy cười lên! – Trong hồng phúc lên đường!
Mặt trăng lơ lửng trên cao ấy.
Anh là của em – không ngờ vực, hiển nhiên
Như cánh tay này vậy.
Từ sáng sớm em cất bước lên đường
Hướng về những cánh cửa nơi bệnh viện
Anh chỉ đơn giản là đi về xứ nóng
Hướng về những đại dương.
Em đã hôn anh! Em đã bỏ bùa anh!
Em đang cười bóng tối trên mộ chí!
Em không tin tử thần!
Em vẫn đợi
Vẫn chờ anh từ ga
xe lửa về nhà mình.
Cứ để mặc lá rơi và
sẽ xóa sạch trơn
Những lời ghi trên
băng tang mộ chí
Và nếu như với cuộc
đời anh không còn nữa
Thì em cũng không
còn.
Em nhìn thấy, cảm
nhận anh ở xung quanh!
–Thì những dải băng
tang có nghĩa gì cơ chứ! –
Em đã không quên và
sẽ không quên
Không quên anh suốt
năm dài thế kỷ!
Em biết lời hứa như
vầy chỉ là vô giá trị
Em hiểu sự hoài
công.
– Bức thư gửi vào
vô cùng
– Bức thư gửi vào
vô tận
Bức thư gửi vào trống
không.
Осыпались листья над Вашей могилой
Осыпались листья над Вашей могилой,
И пахнет зимой.
Послушайте, мёртвый, послушайте, милый:
Вы всё-таки мой.
Смеётесь! — В блаженной крылатке дорожной!
Луна высока.
Мой — так несомненно и так непреложно,
Как эта рука.
Опять с узелком подойду утром рано
К больничным дверям.
Вы просто уехали в жаркие страны,
К великим морям.
Я Вас целовала! Я Вам колдовала!
Смеюсь над загробною тьмой!
Я смерти не верю! Я жду Вас с вокзала —
Домой.
Пусть листья осыпались, смыты и стёрты
На траурных лентах слова.
И, если для целого мира Вы мёртвый,
Я тоже мертва.
Я вижу, я чувствую, — чую Вас всюду!
— Что́ ленты от Ваших венков! —
Я Вас не забыла и Вас не забуду
Во веки веков!
Таких обещаний я знаю бесцельность,
Я знаю тщету.
— Письмо в бесконечность.
— Письмо в беспредельность —
Письмо в пустоту.
45. TÔI ĐÃ TỪNG GẶP ANH NHỮNG BA LẦN
Tôi đã từng gặp anh những ba lần
Nhưng mà hai ta không hề riêng lẻ
–Bởi vì qua lời đầu tiên của anh
Con tim của tôi đã
cháy!
Ý nghĩa của những lời
rất tăm tối
Như tiếng rì rào của
chiếc lá non.
Anh giống hệt chân
dung trong albom –
Anh là ai thì tôi
không biết nổi.
. . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . .
Tất cả vô tình –
như người đời nói
Có thể đem gấp lại
cuốn albom…
Ôi, vầng trán cẩm
thạch! Điều bí mật nằm
Ở đằng sau vầng
trán to lớn ấy!
Hãy lắng nghe đây
này, tôi trung thực
Trước sự thách thức,
trước nỗi buồn:
Và bờm tóc của tôi
màu vàng
Chưa từng biết đến
bàn tay ai khác.
Linh hồn của tôi
không hề khuất phục
Ta là những linh hồn
đẳng cấp khác nhau
Và con quỉ không thể
nào mua chuộc của tôi
Yêu anh – không hề
cho phép.
– Thế thì đã có điều
gì ở đây?
Sự phán xét của một
quan tòa khác.
Có nhiều thứ không
có câu trả lời
Tôi là ai – anh
không hề biết được.
1914
Я видела Вас три раза
Я видела Вас три раза,
Но нам не остаться врозь.
— Ведь первая Ваша фраза
Мне сердце прожгла насквозь!
Мне смысл её так же тёмен,
Как шум молодой листвы.
Вы — точно портрет в альбоме, —
И мне не узнать, кто Вы.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Здесь всё — говорят — случайно,
И можно закрыть альбом…
О, мраморный лоб! О, тайна
За этим огромным лбом!
Послушайте, я правдива
До вызова, до тоски:
Моя золотая грива
Не знает ничьей руки.
Мой дух — не смирён никем он.
Мы — души различных каст.
И мой неподкупный демон
Мне Вас полюбить не даст.
— «Так что ж это было?» — Это
Рассудит иной Судья.
Здесь многому нет ответа,
И Вам не узнать — кто я.
1914