Thơ về Boris Pasternak
46. ANH HÃY BƯỚC VÀO KHÔNG CẦN GÕ CỬA
Anh hãy bước vào không cần gõ cửa
Tình cảm mình không cửa đóng đâu anh
Hãy lắng nghe thơ em viết cho mình
Anh là những gì mà em chăm chú.
Anh hãy bước vào. Cửa như lông vũ
Nhẹ nhàng mang đi bằng những bức thư
Những bức thư như bão tuyết vù vù
Những con tàu tình yêu, tình huynh đệ.
Anh hãy bước vào – người nhà chẳng có
Và hãy nhớ rằng em chẳng bận tâm
Rằng vợ anh vẫn ghen anh điên cuồng
Em với anh – chỉ Tâm hồn thôi chứ…
Anh hãy đến giúp, không cần gõ cửa
Như thiên thần với con gái của em
Anh là tất cả, và hãy nhớ rằng
Anh
là người thân nhất trong thiên hạ…
1923
___________________
*Các
bài Anh hãy bước vào không cần gõ cửa; Khi em buồn – em suy nghĩ về anh; Gửi anh trong mùa thứ năm của năm; Không gặp gỡ viết về người tình Boris Pasternak.
Входи, мой друг, входи без стука
Входи, мой друг, входи без стука.
Для нашей дружбы нет двери.
Мои стихи к тебе послушай,
Я - вся внимание - твои.
Входи, мой друг. Ведь дверь взлетела.
Её, как перышко, несли
Те письма - белые метели,
Любви и дружбы корабли.
Входи, мой друг - родней не будет,
И знай: не стоит и гроша,
Когда жена тебя ревнует, -
Ведь я с тобою - лишь Душа...
Придешь без стука ты на помощь
Как ангел дочери моей.
Ты все, что с нами было, помнишь,
Мой самый близкий из людей...
1923
47.
KHI EM BUỒN – EM SUY NGHĨ VỀ ANH
Khi
em buồn – em suy nghĩ về anh
Khi
em vui – cũng về anh như vậy
Như
suối nhạc từ lá cây bện lại
Như
chuyến tàu đúng hẹn từ màn sương.
Cứ
để giấc mơ đi suốt đường trần
Nhưng
có dấu hiệu – giấc mơ sẽ hết
Còn
anh mãi mãi là người quay ngoắt
Mà
với anh say đắm vẫn ngập tràn.
Em
đã không còn chờ đợi thư anh
Nhưng
mỗi ngày, mỗi khắc trong cuộc sống
Anh
là mục đích, mạch nguồn sống động
Như
đã, đang và sẽ vậy ngàn năm.
Когда мне плохо - думаю о Вас
Когда мне плохо - думаю о Вас,
Когда блаженно - это тоже Вы,
Как музыка слетающей листвы,
Как поезд из тумана - в верный час.
Пусть длится этот сон всю жизнь,
Но есть одна примета сна - пройдет,
Вы навсегда извечный оборот
На Вас, и страсти не избыть.
Я перестала Ваших писем ждать,
Но каждый день и каждый жизни миг
Вы - цель моя, трепещущий родник.
Так было, есть и вечно будет так.
48.
GỬI ANH TRONG MÙA THỨ NĂM CỦA NĂM,
TRONG
GIÁC QUAN THỨ SÁU VÀ KHÔNG GIAN BỐN CHIỀU – B. P
Khi
có anh – mùa thứ năm của năm
Có
vườn địa đàng và thông xanh thắm
Ở
đó thiên nhiên vô cùng hào phóng
Có
mặt trời và có cả sao trăng.
Khi
có anh – giác quan thứ sáu hân hoan
Trong
biến xanh – Yêu thương và Tin tưởng
Dẹp
sang một bên những gì cẩn trọng
Ở
nơi này cánh cửa sáng mở toang.
Ta
gặp ở nơi ba chiều không gian
Ngỡ
như bức thư cổ mờ nét nhạt
Vĩnh
hằng, tháng năm, giờ và khoảnh khắc
Hai
chúng mình trong bốn chiều không gian.
Bên
anh, không bao giờ em tĩnh lặng
Bên
anh – bầu trời thứ bảy là vô tận…
1925
Моему брату в пятом времени года,
шестом чувстве и четвертом измерении -
Б. П.
С тобою - в пятое время года,
Где райский сад и зелёные сосны,
Где в щедрости так откровенна природа -
Там сразу луна и солнце, и звезды...
С тобою - в блаженное чувство шестое,
В лазурное море - в Любовь и Доверье...
Пусть нас осторожность сторонкой
обходит-
Здесь настежь распахнуты светлые двери.
Мы встретимся там, где все три измеренья
Покажутся древним письмом полустертым,
Где вечность и годы, часы и мгновенья -
С тобой только мы в измеренье четвёртом.
С тобой никогда не узнаю покоя -
С тобою - в бездонное небо седьмое...
49. KHÔNG GẶP GỠ
Chờ gặp gỡ, hóa ra không phải gặp
Mà bất ngờ và cũng thật mông lung…
Giữa các nhà văn từ khắp hành tinh
Có
người anh của tôi, Pasternak.
Anh
được gọi là nhà thơ xuất sắc
Báo
chí đăng hình cùng những lời khen…
Còn
tôi trong ánh hào quang của anh
Chỉ
là một người bà con tội nghiệp.
Về
văn, thơ – và bao nhiêu thứ khác
Đều
có chung một qui luật rõ ràng
Không
gặp gỡ có luật bất thành văn
Mà
với nhau người ta không hiểu được.
Так встречи ждать, а вышла вдруг
невстреча
Так встречи ждать, а вышла вдруг
невстреча,
Нежданная, негаданная, так...
Среди писателей всемирного конгресса
Мой брат заоблачный, с тобою, Пастернак.
Ты здесь в чести: великий лирик века -
В журналах фото и газет хвала...
А я в сиянье твоего успеха
Лишь родственницей бедною была.
О прозе, о поэзии - все мимо -
Подавленности тягостной печать.
У всех невстреч закон неумолимый -
Друг другу людям не дано понять!
Thơ
về Sophia Parnok
50. EM HẠNH PHÚC
KHÔNG?
Em hạnh phúc không?
– Em đừng nói! Chắc gì em!
Mà tốt nhất – là cứ
mặc!
Em đã từng mơ tưởng
đến bao nhiêu người khác
Chính vì thế em buồn.
Tôi nhìn thấy ở
trong em
Tất cả nhân vật của
bao nhiêu bi kịch
Em là quí bà trẻ
trung không hề hạnh phúc
Không ai cứu được
em!
Em đã lặp lại vô
cùng mỏi mệt
Lối hát nói của
tình!
Cái vòng gang trên
bàn tay thiếu máu của em
Rất chi là rõ nét!
Tôi yêu em. – Như
đám mây đen hung dữ
Trên người em –
luôn luôn có lỗi lầm –
Bởi vì em hay châm
chọc và xỏ xiên
Và tốt hơn tất cả.
Và bởi vì cuộc đời
của chúng ta – khác lạ
Trong bóng tối của
những con đường
Vì sự quyến rũ có đầy
cảm hứng của em
Vì số phận tối tăm
và nghiệt ngã.
Vì với con quỉ có vầng
trán dô như em
Tôi nói lời xin tha
thứ
Vì một điều rằng –
dù có tan ra trên mộ chí! –
Cũng không ai có thể
cứu được em!
Vì sự run rẩy này,
vì một điều – chẳng lẽ
Rằng tôi sẽ mơ
trong một giấc mơ? –
Vì cái sự quyến rũ
cho dù đầy mai mỉa
Rằng em – mà không
phải hắn ta.
1914
___________________
*Các bài Em hạnh
phúc không; Dưới vẻ dịu dàng của tấm khăn nhung; Em đã từng rất lười mặc áo quần;
Hãy nhớ rằng: tôi quí hơn tất cả Rút từ tập Bạn gái (Подруга) viết về
người yêu cùng giới Sophia Parnok (1885 – 1933).
Вы счастливы? — Не скажете! Едва ли!
Вы счастливы? — Не скажете! Едва ли!
И лучше — пусть!
Вы слишком многих, мнится, целовали,
Отсюда грусть.
Всех героинь шекспировских трагедий
Я вижу в Вас.
Вас, юная трагическая леди,
Никто не спас!
Вы так устали повторять любовный
Речитатив!
Чугунный обод на руке бескровной —
Красноречив!
Я Вас люблю. — Как грозовая туча
Над Вами — грех —
За то, что Вы язвительны и жгучи
И лучше всех,
За то, что мы, что наши жизни — разны
Во тьме дорог,
За Ваши вдохновенные соблазны
И тёмный рок,
За то, что Вам, мой демон крутолобый,
Скажу прости,
За то, что Вас — хоть разорвись над гробом! —
Уж не спасти!
За эту дрожь, за то — что — неужели
Мне снится сон? —
За эту ироническую прелесть,
Что Вы — не он.
1914
51. DƯỚI VẺ DỊU DÀNG CỦA TẤM KHĂN NHUNG
Dưới vẻ dịu dàng của tấm khăn nhung
Tôi đang gọi về giấc mơ ngày trước.
Điều gì đã xảy ra? – Ai thắng cuộc?
Còn ai thua?
Tất cả làm tôi lại đổi ý bây giờ
Tất cả làm tôi khổ đau lần nữa.
Để làm gì, không tìm ra từ ngữ
Liệu có phải là đấy tình yêu?
Ai là thợ săn? Ai là con mồi?
Tất cả ngược lại, rõ điều quái quỉ!
Liệu đã hiểu tiếng rên dài ư ử
Con mèo Si-bê-ria?
Ý người ta trong cuộc
đấu tay đôi
Ai, ở trong tay ai
là quả bóng?
Bởi đã từng vẫy
vùng bay bổng
Con tim ai – của em
hay của tôi?
Dù sao thì – điều
gì đã xảy ra?
Vì sao lại rất mong
và thấy tiếc?
Mà không hiểu được:
tôi người thắng cuộc?
Hay người thua?
1914
Под лаской плюшевого пледа
Под лаской плюшевого пледа
Вчерашний вызываю сон.
Что это было? - Чья победа? -
Кто побежден?
Все передумываю снова,
Всем перемучиваюсь вновь.
В том, для чего не знаю слова,
Была ль любовь?
Кто был охотник? - Кто - добыча?
Все дьявольски-наоборот!
Что понял, длительно мурлыча,
Сибирский кот?
В том поединке своеволий
Кто, в чьей руке был только мяч?
Чье сердце - Ваше ли, мое ли
Летело вскачь?
И все-таки - что ж это было?
Чего так хочется и жаль?
Так и не знаю: победила ль?
Побеждена ль?
1914
52. EM ĐÃ TỪNG RẤT LƯỜI MẶC ÁO QUẦN
Em đã từng rất lười mặc áo quần
Và lười nhác đứng lên từ chiếc ghế.
– Mà mỗi ngày đang phía trước của em
Sẽ là niềm vui của tôi vui vẻ.
Có điều đặc biệt
làm em do dự
Đi trong đêm giá lạnh
và muộn màng.
– Mà mỗi giờ đang
phía trước của em
Niềm vui tôi sẽ là
rất tươi trẻ.
Em đã làm điều này
không hề ác
Không sửa được mà lại
rất hồn nhiên.
– Tôi đã từng là tuổi
trẻ của em
Thời tuổi trẻ đi
ngang qua trước mặt
1914
Вам одеваться было лень
Вам одеваться было лень,
И было лень вставать из кресел.
- А каждый Ваш грядущий день
Моим весельем был бы весел.
Особенно смущало Вас
Идти так поздно в ночь и холод.
- А каждый Ваш грядущий час
Моим весельем был бы молод.
Вы это сделали без зла,
Невинно и непоправимо.
- Я Вашей юностью была,
Которая проходит мимо.
1914
53. HÃY NHỚ RẰNG TÔI QUÍ HƠN TẤT CẢ
Hãy nhớ rằng: tôi quí hơn tất cả
Là sợi tóc từ trên mái đầu tôi.
Và em cũng thế nhé, tự bước đi
Tự cho mình, thế nhé.
Em đừng yêu tôi, em đừng yêu tôi nữa
Đừng giữ gìn gì tôi nữa nghe em
Để tôi có thể bước ra một cách lặng yên
Đứng trong trời gió.
1915
Вспомяните: всех голов мне дороже
Вспомяните: всех голов мне дороже
Волосок один с моей головы.
И идите себе… — Вы тоже,
И Вы тоже, и Вы.
Разлюбите меня, все разлюбите!
Стерегите не меня поутру!
Чтоб могла я спокойно выйти
Постоять на ветру.
1915
54. HAI KẾT CỤC
1
Cùng với tôi, bóng trong đêm thì thầm
Vỗ về tôi những vòng tròn của khói
Tôi hiểu bí mật mọi loài cây cỏ
Và những bài ca của mọi cây chuông
Còn người ta đi ngang qua lặng im
Họ vội vàng đi về nơi nào đấy.
Từng đường gân của tôi run lẩy bẩy
Tôi run
lên trong im lặng của đêm
Trên cuộc
đời cháy lên và sôi nổi
Giữ trong
tay trầm mặc một ngọn đèn
Tôi chưa
sống – đã vậy thời thượng cổ
Thượng cổ
có rồi – giờ lại hiện lên.
2
Cùng với
em, bóng trong đêm thì thầm
Vỗ về em
những vòng tròn của khói
Em hiểu bí
mật mọi loài cây cỏ
Và những
bài ca của mọi cây chuông
Còn người
ta đi ngang qua lặng im
Họ vội
vàng đi về nơi nào đấy.
Từng đường
gân của em run lẩy bẩy
Em run lên
trong im lặng của đêm
Trên cuộc
đời cháy lên và sôi nổi
Giữ trong
tay trầm mặc một ngọn đèn…
Em chưa
sống – đã vậy thời thượng cổ
Thượng cổ
có rồi – sau chẳng hiện lên.
Два исхода
1
Со мной в ночи шептались тени,
Ко мне ласкались кольца дыма,
Я знала тайны вcex растений
И песни всех колоколов, -
А люди мимо шли без слов,
Куда-то вдаль спешили мимо.
Я трепетала каждой жилкой
Среди безмолвия ночного,
Над жизнью пламенной и пылкой
Держа задумчивый фонарь...
Я не жила, - так было встарь.
Что было встарь, то будет снова.
2
С тобой в ночи шептались тени,
К тебе ласкались кольца дыма,
Ты знала тайны всех растений
И песни всех колоколов, -
А люди мимо шли без слов
Куда-то вдаль спешили мимо.
Ты трепетала каждой жилкой
Среди безмолвия ночного,
Над жизнью пламенной и пылкой
Держа задумчивый фонарь...
Ты не жила, - так было встарь.
Что было встарь, - не будет снова.
1906 – 1920
55. TỪ THƠ CỦA M. D. V*
Con tim
này của tôi! Những dòng thơ tôi!
Marceline,
chị trong tôi vẫn sống!
Câu thơ sợ
hãi không im trong quên lãng
Băng giá
tan ra bằng nước mắt dâng đầy.
Ta đã
trao, đã khổ cả hai người
Ta đã yêu
và yêu trong đau khổ!
Đau khổ đã
đâm ta bằng mũi giáo
Và trên
vầng trán nóng bỏng của mình
Tôi cảm
nhận ra bàn tay lạnh lẽo.
Tôi xin nụ
hôn, được nhận về mũi giáo!
Giống chị,
tôi không tìm ra chúa tể của tôi
Con tim
này của tôi! Những dòng thơ này!
Marceline,
chị hay là tôi vậy?
_________________
*
Marceline Desbordes-Valmore (1786-1859) – nữ thi sĩ người Pháp. Đề tài chính
của thơ bà là nỗi buồn của tình yêu không được đáp lại.
В зеркале книги М. Д. В.
Это сердце - мое! Эти строки - мои!
Ты живешь, ты во мне, Марселина!
Уж испуганный стих не молчит в забытьи,
И слезами растаяла льдина.
Мы вдвоем отдались, мы страдали вдвоем,
Мы, любя, полюбили на муку!
Та же скорбь нас пронзила и тем же копьем,
И на лбу утомленно-горячем своем
Я прохладную чувствую руку.
Я, лобзанья прося, получила копье!
Я, как ты, не нашла властелина!..
Эти строки - мои! Это сердце - мое!
Кто же, ты или я - Марселина?
1906 – 1920
56. ĐÁM MÂY TRẮNG CÓ ĐƯỜNG VIỀN MÀU HỒNG
Đám mây trắng có đường viền màu hồng
Bỗng cháy lên, hồng lên bằng lửa cuối.
Tôi hiểu rằng không buồn về người ấy
Buổi hoàng hôn tôi cứ ngỡ thiên đường.
Đám mây trắng có đường viền màu hồng
Bỗng bừng
lên, trao mình cho phận số.
Tôi hiểu
rằng, cho mình tôi buồn bã
Buổi hoàng
hôn tôi cứ ngỡ thiên đường.
Đám mây
trắng có đường viền màu hồng
Bỗng mất
hút vào bao la đôi cánh
Khóc về
người, khi đó tôi hiểu tận
Rằng hoàng
hôn tôi cứ ngỡ thiên đường.
1906 – 1920
Облачко, белое облачко с розовым краем
Облачко, белое облачко с розовым краем
Выплыло вдруг, розовея последним огнём.
Я поняла, что грущу не о нём,
И закат мне почудился — раем.
Облачко, белое облачко с розовым краем
Вспыхнуло вдруг, отдаваясь вечерней судьбе.
Я поняла, что грущу о себе,
И закат мне почудился — раем.
Облачко, белое облачко с розовым краем
Кануло вдруг в беспредельность движеньем крыла.
Плача о нём, я тогда поняла,
Что закат мне — почудился раем.
1906 – 1920
57. NGÔI NHÀ NHỎ MÀU HỒNG
Giữa những hàng xóm khổng lồ, như quỉ lùn
Nó gợi sự ngạc nhiên cho tất cả.
Một ngôi nhà màu hồng và bé nhỏ
Cản trở bằng gì và cản trở ai chăng?
Khi trời tối, những cửa kín như bưng
Sự diệu huyền gõ vào rất lặng lẽ
Ngôi nhà nhỏ khiêm nhường và xưa cổ
Xao xuyến bằng gì, làm xao xuyến ai chăng?
Đem tiếng cười chúng tôi trả lời bằng.
Có nàng tiên mở ra vườn địa đàng…
Ngôi nhà nhỏ chỉ trẻ con hiểu được
Lầm lỗi gì, lầm lỗi trước ai chăng?
Chúng tôi đem những niềm vui chôn cùng
Những nàng tiên lặn vào trong bóng đêm…
Ngôi nhà nhỏ thân thương và trìu mến
Cản trở bằng gì và cản trở ai chăng?
1906 – 1920
Розовый домик
Меж великанов-соседей, как гномик
Он удивлялся всему.
Маленький розовый домик,
Чем он мешал и кому?
Чуть потемнеет, в закрытые ставни
Тихо стучит волшебство.
Домик смиренный и давний,
Чем ты смутил и кого?
Там засмеются, мы смеху ответим.
Фея откроет Эдем...
Домик, понятный лишь детям,
Чем ты грешил, перед кем?
Лучшие радости с ним погребли мы
Феи нырнули во тьму...
Маленький домик любимый,
Чем ты мешал и кому?
1906 – 1920
58. NHỮNG GIỌT LỆ
Ta khóc về phòng ngoài rất tối tăm
Vì ở đó không có ai thắp đèn
Ta khóc vì trên mái nhà hàng xóm
Tuyết đã tan.
Ta khóc về những cây dương mùa xuân
Khóc về
tiếng vang trong bóng không ngừng
Ta khóc
như trẻ con về tiếng vọng
Của những
ngày tháng Năm.
Ta dùng
nước mắt đánh dấu con đường
Vào thế
giới say mê mà số phận không dành…
Khóc nức
nở trên con mèo lạnh lẽo
Như khóc
cho chính mình.
Mất hết
rồi – cả yên ổn, lặng im
Anh lấy đi
nhiều thứ từ con tim!
Nhưng
không lấy đi trong lần giã biệt
Những giọt
lệ của em.
1906 – 1920
Слезы
Слезы? Мы плачем о темной передней,
Где канделябра никто не зажег;
Плачем о том, что на крыше соседней
Стаял снежок;
Плачем о юных, о вешних березках,
О несмолкающем звоне в тени;
Плачем, как дети, о всех отголосках
В майские дни.
Только слезами мы путь обозначим
В мир упоений, не данный судьбой...
И над озябшим котенком мы плачем,
Как над собой.
Отнято все, - и покой и молчанье.
Милый, ты много из сердца унес!
Но не сумел унести на прощанье
Нескольких слез.
1906 – 1920
59. LỜI CHÀO TỪ TRÊN THÁP
Sắp tối rồi: bóng đêm không thể tránh
Ngoài cửa sổ đang thấp thoáng bóng ai…
Hãy ra đi, chàng hiệp sĩ của tôi
Trên con ngựa của chàng màu vàng óng!
Trong ánh
hào quang chưa ai biết đến
Hãy nhớ về
người phụ nữ không quen
Giờ đang
đùa chơi ngọn gió thất thường
Với chiếc
lông màu xanh và vàng óng.
Ở đây cửa
sổ hẹp đầy hoa văn
Ở đây buổi
sáng chân dung trong bóng…
Trong màu
xanh, trong mặt trời đổ xuống
Hãy nhớ về
người phụ nữ không quen!
Chúa thấy
không, số phận không thể tránh
Ngoài cửa
sổ đang thấp thoáng bóng ai…
Hãy ra đi,
chàng hiệp sĩ của tôi
Trên con
ngựa của chàng màu vàng óng!
1906 – 1920
Привет из башни
Скоро вечер: от тьмы не укрыться,
Чья-то тень замелькает в окне…
Уезжай, уезжай же, мой рыцарь,
На своём золотистом коне!
В неизвестном, в сияющем свете
Помяни незнакомку добром!
Уж играет изменчивый ветер
Золотым и зелёным пером.
Здесь оконца узорные узки,
Здесь и утром портреты в тени…
На зелёном, на солнечном спуске
Незнакомку добром помяни!
Видит Бог, от судьбы не укрыться.
Чья-то тень замелькала в окне…
Уезжай, уезжай же, мой рыцарь,
На своём золотистом коне!
1906 – 1920
60. NÀNG BẠCH TUYẾT
Tặng
Alexandr Davydovich Topolsky
Bạch Tuyết
ngủ trong quan tài thủy tinh
Những chú
lùn ngồi quanh khóc cay đắng
Họ đặt một
vòng hoa con trên trán
Và trên
ngực loài hoa đừng quên em.
Trên cây
sồi một chú quạ đau buồn
Bạch Tuyết
ngủ trong quan tài thủy tinh
Một chú
lùn đội chiếc mũ không vành
Khóc lên:
“Ta không biết cách giữ em!”
Rồi chú
đeo vào tay băng tang trắng
Chú lùn bé
nhất, chú lùn yêu thương.
Một chú
lùn khác buồn bã thổi kèn
Bạch Tuyết
ngủ trong quan tài thủy tinh
Chú lớn
nhất bên quan tài đứng canh
Chú nhìn
và đợi xem có cười lên.
Bạch Tuyết
ngủ với hoa trên mái tóc
Mà sao
không thấy Bạch Tuyết hồi sinh!
Trên cây
sồi một chú quạ đau buồn.
Bạch Tuyết
ngủ trong quan tài thủy tinh.
1906 – 1920
Белоснежка
Александру Давидовичу Топольскому
Спит Белоснежка в хрустальном гробу.
Карлики горько рыдают, малютки.
Из незабудок веночек на лбу
И на груди незабудки.
Ворон - печальный сидит на дубу.
Спит Белоснежка в хрустальном гробу.
Плачется карлик в смешном колпаке,
Плачется: "Плохо ее берегли мы!"
Белую ленту сжимает в руке
Маленький карлик любимый.
Средний - печальный играет в трубу.
Спит Белоснежка в хрустальном гробу.
Старший у гроба стоит на часах,
Смотрит и ждет, не мелькнет ли усмешка.
Спит Белоснежка с венком в волосах,
Не оживет Белоснежка!
Ворон - печальный сидит на дубу.
Спит Белоснежка в хрустальном гробу.
1906 – 1920
61. ĐÒ NGANG
Trời đêm trên xe ngựa
Chúng tôi đi với một ngọn đèn.
“Asya ngủ hả?” Asya không ngủ:
Phía trước là đò ngang.
Đi từng bước (lên núi thật nhọc nhằn)
Có tiếng sấm trên đồng mơ màng ngủ.
“Asya ngủ chăng?” Asya đang ngủ
Ngủ khi
qua đò ngang!
Trong bóng
tối sông Oka ánh lên
Nước sông
màu ánh bạc.
Còn Asya
khi mở mắt…
“Dậy để
qua đò ngang!”
1906 – 1920
Паром
Темной ночью в тарантасе
Едем с фонарем.
«Ася, спишь?» Не спится Асе:
Впереди паром!
Едем шагом (в гору тяжко),
В сонном поле гром.
«Ася, слышишь?» Спит бедняжка,
Проспала паром!
В темноте Ока блеснула
Жидким серебром.
Ася глазки разомкнула...
«Подавай паром!»
1906 – 1920
62. TRÊN VAI PHẢI CỦA TÔI
Trên vai phải của tôi
Con bồ câu buổi sáng
Còn cú đêm đậu xuống
Bờ vai bên trái này.
Tôi đi, như Hoàng đế
Không còn sợ gì ai –
Khi kẻ thù hợp lại
Cùng bảo vệ cho tôi!
1918
На плече моем на правом
На плече моем на правом
Примостился голубь-утро,
На плече моем на левом
Примостился филин-ночь.
Прохожу, как царь казанский.
И чего душе бояться –
Раз враги соединились,
Чтоб вдвоем меня хранить!
1918
63. NHỮNG TÊN BUÔN LẬU VÀ NHỮNG TÊN CƯỚP
Tặng Sergei
Nó mệt mỏi sau khi đọc sách
Có phải là nó sợ bóng đêm chăng…
Thật là nhảm nhí! Nó từng mơ ước
Về những tên buôn lậu với dao găm.
Những chỗ của ta trên mặt đất bằng
Nó nhìn qua cửa bằng mắt sơn dương.
Những tên buôn lậu và bao quán rượu
Nó ước mơ và nó thích vô cùng.
Nó cực kỳ hoang dã, nên ở trường
Tờ giấy khen nó không thèm chờ đợi
Nó cần gì, khi nó luôn mơ tới
Những tên buôn lậu và súng ngắn nòng!
Tất cả trên đời sắc sắc không không
Cho dù linh mục tỏ ra giận dữ -
Những tên cướp và những tên buôn lậu
Là ước mơ duy nhất nó hằng mong!
1911
Контрабандисты и бандиты
Сереже
Он после книги весь усталый,
Его пугает темнота...
Но это вздор! Его мечта -
Контрабандисты и кинжалы.
На наши ровные места
Глядит в окно глазами серны.
Контрабандисты и таверны
Его любимая мечта.
Он странно-дик, ему из школы
Не ждать похвального листа.
Что бедный лист, когда мечта -
Контрабандисты и пистолы!
Что все мирское суета
Пусть говорит аббат сердитый, -
Контрабандисты и бандиты
Его единая мечта!
1911
64. LIÊN MINH TAY BA
Chúng tôi là những gương mặt sau sự rụt rè
Có một điều gì đó khác đang giấu kín.
Chúng tôi
là những con tim nổi loạn.
Chúng tôi
trẻ trung. Chúng tôi có ba người.
Chúng tôi
rất lặng lẽ khi học bài
Nhưng rất
bốc lửa trên sân quần ngựa.
Chúng tôi
có những bài thơ tương tự
Và giấc
ngủ cũng tương tự vậy thôi.
Phụng sự
tự do – là phương châm của chúng tôi
Và giống
như những anh hùng khi kết thúc.
Với chiếc
bóng của Shiller chúng tôi thề thốt.
Chúng tôi
trẻ trung. Chúng tôi có ba người.
1906 – 1920
Тройственный союз
У нас за робостью лица
Скрывается иное.
Мы непокорные сердца.
Мы молоды. Нас трое.
Мы за уроком так тихи,
Так пламенны в манеже.
У нас похожие стихи
И сны одни и те же.
Служить свободе - наш девиз,
И кончить, как герои.
Мы тенью Шиллера клялись.
Мы молоды. Нас трое.
1906 – 1920
65. KHÔNG PHẢI TÌNH YÊU MÀ LÀ CƠN SỐT NÓNG
Không phải tình yêu, mà là cơn sốt nóng
Là trận đánh nhẹ nhàng, láu lỉnh biết bao!
Hôm nay lợm giọng, ngày mai ngọt ngào
Hôm nay chết thì ngày mai sẽ sống.
Trận đánh sôi lên mới buồn cười kia chứ
Anh thật
thông minh – em thật thông minh!
Nam anh
hùng và nữ cũng anh hùng
Em giống
như người bị người ta quyến rũ.
Cây gậy
mục đồng – hay là thanh kiếm?
Người xem,
trận đánh – hay điệu nhảy vui?
Một bước
tiến – rồi ba bước lùi
Một bước
lùi – và ba bước tiến.
Mật trong
miệng, còn trong mắt – lòng tin
Nhưng lông
mày đã bắt đầu sưng sỉa
Không phải
tình mà thói giả nhân giả nghĩa
Giả nghĩa
giả nhân – không phải là tình.
Và kết quả
những trò này (trong ngoặc –
Chưa kết
thúc!) – chỉ là những lỗi lầm
Và thế là
có một đống, một chồng
Một chồng
thơ đáng phục.
1918
Не любовь, а лихорадка
Не любовь, а лихорадка!
Лёгкий бой лукав и лжив.
Нынче тошно, завтра сладко,
Нынче помер, завтра жив.
Бой кипит. Смешно обоим:
Как умён — и как умна!
Героиней и героем
Я равно обольщена.
Жезл пастуший — или шпага?
Зритель, бой — или гавот?
Шаг вперёд — назад три шага,
Шаг назад — и три вперёд.
Рот как мёд, в очах доверье,
Но уже взлетает бровь.
Не любовь, а лицемерье,
Лицедейство — не любовь!
И итогом этих (в скобках —
Несодеянных!) грехов —
Будет лёгонькая стопка
Восхитительных стихов.
1918
66. LẤY KHĂN QUẤN THÀNH VÒNG
Lấy khăn quấn thành vòng
Em đan nỗi buồn anh
Và giờ khăn chẳng có
Em hát trên quãng trường.
Bỏ lại lời nguyền rủa!
Em – người tình của anh!
1918
Концами шали
Концами шали
Вяжу печаль твою.
И вот - без шали -
На площадях пою.
Сняту проклятие!
Я госпожа тебе!
1918
67. KẾT BẠN VỚI EM KHÔNG NÊN
Kết bạn với em không nên, yêu em – không thể!
Cẩn thận ánh mắt nhìn, đôi con mắt đẹp thế!
Thuyền phải bơi, cối xay gió – phải quay.
Có phải
anh dừng con tim đang xoay?
Vở cầm
trong tay – không trở thành ông chủ!
Sau mỗi hồi
lòng có còn nức nở?
Thập ác
tình yêu nặng – ta chớ động vào.
Ngày hôm
qua đi rồi – ta chôn nó cho mau.
1918
Дружить со мной нельзя, любить меня - не можно!
Дружить со мной нельзя, любить меня - не можно!
Прекрасные глаза, глядите осторожно!
Баркасу должно плыть, а мельнице - вертеться.
Тебе ль остановить кружбщееся сердце?
Порукою тетрадь - не выйдешь господином!
Пристало ли вздыхать над действом комедийным?
Любовный крест тяжел - и мы его не тронем.
Вчерашний день прошел - и мы его схороним.
1918
68. CHƯA THỂ YÊN LÒNG MỘT KHI CHƯA THẤY
Chưa thể yên lòng một khi chưa thấy
Chưa thể yên lòng một khi chưa nghe
Mắt của anh, một khi chưa thấy
Lời của anh, một khi chưa nghe.
Điều không hòa hợp – thật chẳng đáng gì!
Sai lầm rồi, ai mà giúp sửa chúng?
Em có được
con tim mặn và mặn
Nụ cười
của anh quá đỗi ngọt ngào!
- Bà mụ! –
rồi con cháu viết vào bình tro
Em lặp lại
– thẳng thừng và yếu đuối
Chưa yên
lòng, một khi chưa nhìn ra
Chưa yên
lòng, một khi chưa nghe thấy!
1918
Не успокоюсь, пока не увижу
Не успокоюсь, пока не увижу.
Не успокоюсь, пока не услышу.
Вашего взора пока не увижу,
Вашего слова пока не услышу.
Что-то не сходится - самая малость!
Кто мне в задаче исправит ошибку?
Солоно-солоно сердцу досталась
Сладкая-сладкая Ваша улыбка!
- Баба! - мне внуки на урне напишут.
И повторяю - упрямо и слабо:
Не успокоюсь, пока не увижу,
Не успокоюсь, пока не услышу.
1918
69. HÃY HÔN ĐỨA CON GÁI
“Hãy hôn đứa con gái!”
Sao keo
kiệt thế này!
Bất hạnh
là vì dại
Thôi, chấm
dứt ở đây.
Giá anh có
con trai
Con của
chung hai đứa
Thì với
anh đã nói:
“Hãy hôn
đứa con trai!”
1918
Поцелуйте дочку!
"Поцелуйте дочку!"
Вот и все. - Как скупо! -
Быть несчастной - глупо.
Значит, ставим точку.
Был у Вас бы малый
Мальчик, сын единый -
Я бы Вам сказала:
"Поцелуйте сына!"
1918
Thơ dịch khá hay đọc không chán. Dường như người dịch đã nhập được hồn thơ của svetaeva nên đã truyền tải được nội dung. Cám ơn người dịch.
Trả lờiXóa