139. HÃY THA LỖI CHO TÔI
“Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi bao ngọn núi!
Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi những dòng sông!
Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi những cánh đồng!
Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi bao cây cối!”
Người mẹ đeo thập ác vào cho người lính
Mẹ vĩnh biệt muôn đời cùng với đứa con…
Và lần nữa từ túp lều còng lưng xuống:
“Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi những dòng sông!”
1918
Простите меня, мои горы!
«Простите меня, мои горы!
Простите меня, мои реки!
Простите меня, мои нивы!
Простите меня, мои травы!»
Мать - крест надевала солдату,
Мать с сыном прощались навеки...
И снова из сгорбленной хаты:
«Простите меня, мои реки!»
1918
140. THA LỖI NHÉ, NINA
Vĩnh biệt nhé! Không nghĩ rằng lần nữa
Trời còn
cho ta gặp lại trong đời!
Chị hãy
tin rằng sức ta không đủ
Để tìm ra
cho hòa giải những lời.
Hình bóng
chị vẫn dễ thương muôn đời
Và con tim
sẽ sống vui muôn thuở
Nhưng dù
sao, không nghĩ rằng lần nữa
Trời còn
cho ta gặp lại trong đời!
1910
_____________
*Bài thơ
về Nina Kornelievna Vinogradova, em gái của nhà văn Anatoly Kornelievich
Vinogradov (1888 – 1946), bạn gái thời trẻ của Tsvetaeva.
“Прости” Нине”
Прощай! Не думаю, чтоб снова
Нас в жизни Бог соединил!
Поверь, не хватит наших сил
Для примирительного слова.
Твой нежный образ вечно мил,
Им сердце вечно жить готово, -
Но все ж не думаю, чтоб снова
Нас в жизни Бог соединил!
1910
141. KÝ ỨC TRÁI TIM
Ký ức trái tim – bằng hoa đừng quên tôi nhé
Tôi quấn vòng quanh bức chân dung của anh.
Ban ngày làm dịu bớt, chữa lành cho tâm trí
Nhưng buổi tối thì không.
Những bước
chân thơ thẩn trong gian phòng buồn
Thơ thẩn,
chờ mong, có đến câu trả lời không chứ.
“Tất cả
rồi sẽ lành”, người ta bảo tôi như thế…
Nhưng buổi
tối thì không.
1906 – 1920
Памятью сердца
Памятью сердца — венком незабудок
Я окружила твой милый портрет.
Днём утоляет и лечит рассудок,
Вечером — нет.
Бродят шаги в опечаленной зале,
Бродят и ждут, не идут ли в ответ.
«Всё заживает», мне люди сказали…
Вечером — нет.
1906 – 1920
142. GỬI P. ANTAKOLSKY
Tôi sẽ tặng cho anh chiếc nhẫn bằng sắt:
Chứng mất ngủ – tuyệt vọng và hân hoan.
Để anh không nhìn các cô em vào mặt
Để anh quên đi ngay cả lời – dịu dàng.
Để cái đầu của anh trong mái tóc xoăn
Như cốc bọt đưa lên trong không khí
Để cái thứ đồ trang sức bằng sắt ấy
Sẽ chuyển
anh thành tro bụi và than.
Còn khi
vào mái tóc tiên tri của anh
Tình yêu
tự mình đặt hòn than đỏ
Thì anh
hãy ép chặt vào môi và lặng lẽ
Chiếc nhẫn
sắt trên ngón tay ngăm đen.
Đấy là bùa
khỏi những bờ môi thắm cho anh
Là mắt
xích đầu tiên cho anh như áo giáp
Để anh
đứng như cây sồi trong ngày bão táp
Như Thượng
Đế đứng trong vòng sắt của mình!
1919
П. Антакольскому
Дарю тебе железное кольцо:
Бессонницу - восторг - и безнадежность.
Чтоб не глядел ты девушкам в лицо,
Чтоб позабыл ты даже слово - нежность.
Чтоб голову свою в шальных кудрях
Как пенный кубок возносил в пространство,
Чтоб обратило в угль - и в пепл - и в прах
Тебя - сие железное убранство.
Когда ж к твоим пророческим кудрям
Сама Любовь приникнет красным углем,
Тогда молчи и прижимай к губам
Железное кольцо на пальце смуглом.
Вот талисман тебе от красных губ,
Вот первое звено в твоей кольчуге, -
Чтоб в буре дней стоял один - как дуб,
Один - как Бог в своем железном круге!
1919
Thơ bốn câu
143. TỰA HỒ NHƯ GIỌT NƯỚC MẮT NÓNG BỎNG
Tựa hồ như giọt nước mắt nóng bỏng
Trên mắt tôi một giọt nước mắt rơi.
Trên trời xanh, ở trên trời cao lắm
Có ai người khóc ấm ức về tôi.
Словно теплая слеза
Словно теплая слеза -
Капля капнула в глаза.
Там, в небесной вышине,
Кто-то плачет обо мне.
144. CHIM
THÌ THÍCH BAY VÀO RỪNG
Chim thì
thích bay vào rừng
Dù cho
chim ăn hay không
Em kéo anh
ra từ rác rưởi
Đem về rác
rưởi của mình.
Птичка все же рвется в рощу
Птичка все же рвется в рощу,
Как зерном ни угощаем,
Я взяла тебя из грязи, -
В грязь родную возвращаю.
145. ANH GỌI TÔI LÀ ĐỒ PHÓNG ĐÃNG
Anh gọi tôi là đồ phóng đãng
Nhưng có một điều nhỏ nhặt vẫn quên:
Tôi cần người khách của tôi cao lớn
Và để cho người ấy chẳng trả tiền.
Ты зовешь меня блудницей
Ты зовешь меня блудницей, -
Прав, - но малость упустил:
Надо мне, чтоб гость был статен,
Во - вторых - чтоб не платил.
146. TRONG
NHÀ ANH MỌI THỨ
Trong nhà anh,
mọi thứ
Khóa kỹ, trừ
con tim
Chỉ những gì
của em
Xếp đặt không
trật tự.
Всe в ваших домах
Всe в ваших домах
Под замком, кроме сердца.
Лишь то мое в доме,
Что плохо лежит.
147. NƯỚC NGA ƠI XIN NGƯỜI ĐỪNG XẤU HỔ
Nước Nga ơi, xin Người đừng xấu hổ!
Những thiên thần – mãi mãi chân không…
Những đôi giày đã lấy đi lũ quỉ.
Giờ chỉ sợ ai có giày ở dưới chân!
Не стыдись, страна Россия
Не стыдись, страна Россия!
Ангелы - всегда босые...
Сапоги сам черт унес.
Нынче страшен - кто не бос!
148. ANH GỌI TÔI LÀ HƯ THÂN ĐỒI BẠI
Anh gọi tôi là hư thân, đồi bại
Nhưng mà anh hãy chớ quên rằng:
Tôi thà ép môi vào lò sưởi
Còn hơn là hôn anh.
Ты зовешь меня блудницей
Ты зовешь меня блудницей, -
Прав, - но все ж не забывать:
Лучше к печке приложиться,
Чем тебя поцеловать.
149. ANH GỌI TÔI LÀ HƯ THÂN ĐỒI TRỤY
Anh gọi tôi là hư thân, đồi trụy
Hãy nghe đây, này cậu bé học trò!
Tôi cần để cho người khách tế nhị
Và để cho anh sẽ phải ra đi.
Ты зовешь меня блудницей:
- Слушай, выученик школ!
Надо мне, чтоб гость был вежлив,
Во - вторых - чтоб ты ушел.
150. NHÀ CỦA ANH BỊ TRỘM
Nhà của anh bị trộm
Em đâu có lỗi gì
Chỉ đồ em trong nhà
Xếp đặt rất lộn xộn.
Твой дом обокраден
Твой дом обокраден,
Не я виновата.
Лишь то - мое - в доме,
Что плохо лежит.
151. TÔI ĐÃ MÊT MỎI LÀM MỘT QUÍ BÀ
Tôi đã mệt mỏi làm một quí bà
Dễ chịu hơn nhiều được làm nô lệ.
Để bàn tay với mái tóc làm chủ
Còn những con mắt – dòng lệ tuôn ra.
Tôi đã mệt mỏi làm một quí bà
Dễ chịu hơn nhiều được làm nô lệ.
Để bàn tay chỉ quay tơ xe chỉ
Trước cái chết giống như cây lanh kia.
1920
Я устала быть госпожой
Я устала быть госпожой.
Мне приятнее быть рабой.
Чтобы руки владели косой,
А глазища – слезой.
Я устала быть госпожой,
Мне приятнее быть рабой,
Чтоб привычной рукою прясть
Перед смертию лен.
1920
152.
TRONG CUỐN SÁCH CHẾT NGƯỜI
Trong
cuốn sách chết người
Không
có cám dỗ dành cho phụ nữ
Ars
Amandi – Nghệ thuật Tình ái
Với
phụ nữ – là cả trái đất này.
Con
tim – thuốc độc của tình yêu
Thuốc
độc – chính xác hơn tất cả.
Đàn
bà từ thuở còn nằm trên nôi
Đã
là lỗi lầm dành cho ai đó.
Chao
ôi, đến trời xanh thì xa quá!
Mà
những bờ môi thì gần gũi trong sương
Chúa
ơi xin đừng phán xét! – Ngài chưa từng
Làm
một đàn bà ở nơi trần thế!
1915
________________
*Bài
thơ nói về số kiếp và sự tiền định của người phụ nữ. Ars Amandi – nghĩa
là Nghệ thuật yêu, là tên một tác phẩm của nhà thơ La Mã cổ đại Publius Ovidius
Naso (thế kỷ 1). Tsvetaeva cho rằng cuốn sách này chỉ cần cho đàn ông chứ phụ nữ
tự thân đã là sự thể hiện của cả trái đất, là một Eva muôn thuở, từ thuở còn nằm
trong nôi đã là sự cám dỗ (lầm lỗi) dành cho ai đó rồi.
В гибельном фолианте
В гибельном фолианте
Нету соблазна для
Женщины. - Ars Amandi
Женщине - вся земля.
Сердце - любовных зелий
Зелье - вернее всех.
Женщина с колыбели
Чей-нибудь смертный грех.
Ах, далеко до неба!
Губы - близки во мгле...
- Бог, не суди! - Ты не был
Женщиной на земле!
153. NHƯ LỜI KHEN CHÂM CHÍCH VÀ TRAU CHUỐT
Như lời khen châm chích và trau chuốt
Dưới bầu trời La Mã, giữa hiên đêm
Như
chiếc chén chết trong vòng hoa hồng
Có
hai lời như thế đầy ma thuật.
Người
chết đứng dậy như lệnh của ai
Chúa
lặng im – tin tức này của gió
Người
ngoại giáo – sự trả thù ngoại giáo
Tôi
chưa bao giờ đọc “Nghệ thuật Yêu”!
Màu
xanh trời, xanh mắt của người yêu
Làm
tôi mù mắt. – Nhà thơ đừng giận
Tiếng
Latinh không học kịp nữa đâu.
Những
người tình có đọc Ô-vi-đi-ô?!
Bạn
bè có đọc sách em? Đừng phủ nhận
Người
kế thừa nhân vật của em nghe!
1915
________________
*
Nghệ thuật Yêu – tức cuốn Ars Amandi – một tác phẩm của nhà thơ La Mã cổ đại
Publius Ovidius Naso (thế kỷ 1). Bài thơ “Trong cuốn sách chết người” và bài
này Tsvetaeva viết trong thời kỳ tình yêu sôi nổi với nữ nhà thơ Sophia Parnok.
Как жгучая, отточенная лесть
Как жгучая, отточенная лесть
Под римским небом, на ночной веранде,
Как смертный кубок в розовой гирлянде -
Магических таких два слова есть.
И мертвые встают как по команде,
И Бог молчит - то ветреная весть
Язычника - языческая месть:
Не читанное мною Ars Amandi!
Мне синь небес и глаз любимых синь
Слепят глаза. - Поэт, не будь в обиде,
Что времени мне нету на латынь!
Любовницы читают ли, Овидий?!
- Твои тебя читали ль? - Не отринь
Наследницу твоих же героинь!
154. TÔI BIẾT MỘT SỰ THẬT
Tôi biết một sự thật! Sự thật trước đây không cần nữa!
Không cần phải tranh đấu với nhau hỡi những người trần.
Hãy nhìn xem: buổi chiều, hãy nhìn xem: đêm sắp tới.
Nghĩ điều chi – hỡi những nhà thơ, tướng lĩnh, những người tình?
Gió đã thổi rồi, mặt đất đã ở trong sương
Cơn bão tuyết của sao giữa trời sắp thành băng giá
Rồi chúng ta sẽ nằm dưới đất ngủ yên tất cả
Sao lại không cho nhau ngủ yên ở trên trần.
1915
Я знаю правду! Все прежние правды-прочь
Я знаю правду! Все прежние правды-прочь!
Не надо людям с людьми на земле
бороться.
Смотрите: вечер, смотрите: уж скоро
ночь.
О чем — поэты, любовники, полководцы?
Уж ветер стелется, уже земля в росе,
Уж скоро звездная в небе застынет вьюга,
И под землею скоро уснем мы все,
Кто на земле не давали уснуть друг
другу.
155. TÔI TRAO CUỐN SÁCH NÀY CHO CƠN GIÓ THOẢNG
Tôi trao cuốn sách này cho cơn gió thoảng
Và
cho những con sếu bay ngược chiều.
Kêu
lên rằng ly biệt – thì đã từ lâu
Tôi
đã không còn giọng.
Cuốn
sách này, như cái chai vào con sóng
Tôi
sẽ ném vào cơn lốc của chiến tranh.
Để
nó sẽ lang thang như là ngọn nến
Từ
bàn tay đến bàn tay sẽ được truyền.
Ôi
ngọn gió là nhân chứng của tôi rất trung thành
Hãy
mang đến tận những người yêu dấu
Rằng
tôi đây hằng đêm trong giấc ngủ
Vẫn
trên đường từ Bắc dẫn vào Nam.
1920
Я эту книгу поручаю ветру
Я эту книгу поручаю ветру
И встречным журавлям.
Давным-давно - перекричать разлуку -
Я голос сорвала.
Я эту книгу, как бутылку в волны,
Кидаю в вихрь войн.
Пусть странствует она - свечой под
праздник -
Вот так: из длани в длань.
О ветер, ветер, верный мой свидетель,
До милых донеси,
Что еженощно я во сне свершаю
Путь - с Севера на Юг.
156. VÀ
CHÚA NÓI RẰNG
Và
Chúa nói rằng:
- Thân
xác trẻ
Hãy
đứng lên!
Thân
xác nọ thở dài
- Chớ
phiền con, Đức Chúa
Cho
con được ngủ yên.
Con
gái của Giai-ru
Chỉ
muốn được yên bình –
Và
Chúa bảo:
- Hãy
ngủ yên.
1917
________________
*Bài
thơ dựa theo một tích trong Kinh Thánh nói về việc Chúa Giê-su làm cho con gái
của Giai-ru sống lại (Phúc Âm Lu-ca: 8, 40-56).
И сказал Господь
И сказал Господь:
- Молодая плоть,
Встань!
И вздохнула плоть:
- Не мешай, Господь,
Спать.
Хочет только мира
Дочь Иаира. -
И сказал Господь:
-
Спи.
157. THỜI TUỔI TRẺ MÀU HỒNG
Với nụ cười trên những gương mặt màu hồng
Chúng tôi đứng trong bóng đêm bên vách đá tảng.
Giá mà bầu trời bị cháy hết trong ánh chớp nguồn
Ngay trong dấu hiệu rất cương quyết đầu tiên
Và giá mà vách đá tảng đổ nhào vào vực thẳm
Ngay trong tiếng gõ rất cương quyết đầu tiên…
Nhưng, giá như các bạn biết rằng hãy còn yếu lắm
Những bàn tay của thời tuổi trẻ màu hồng.
Розовая юность
С улыбкой на розовых лицах
Стоим у скалы мы во мраке.
Сгорело бы небо в зарницах
При первом решительном знаке,
И рухнула в бездну скала бы
При первом решительном стуке...
- Но, если б вы знали, как слабы
У розовой юности руки.
Thơ về A. Blok
158.
TÊN CỦA ANH – CON CHIM TRONG BÀN TAY
Tên
của anh – con chim trong bàn tay
Tên
của anh – cục băng nơi đầu lưỡi
Một
chuyển động duy nhất của bờ môi
Tên
của anh – bao gồm năm chữ cái*.
Quả
bóng nhỏ bắt được khi đang bay
Là
lục lạc bạc ở trong miệng lưỡi.
Một
cục đá ném vào trong ao lặng
Sẽ
vang lên như tên gọi của anh.
Giữa
tiếng móng guốc nhẹ nhàng trong đêm
Tên
của anh sẽ vang lên như sấm.
Tên
gọi này như chạm vào thái dương
Nghe
đôm đốp y như là cò súng.
Tên
của anh – không thể nào sánh được
Tên
của anh – nụ hôn vào con mắt
Vào
cơn lạnh của thế kỷ lặng ngừng.
Tên
của anh – nụ hôn vào tuyết trắng
Một
ngụm nước nguồn, băng giá, màu xanh…
Với
tên anh – sâu vô cùng giấc mộng.
1916
____________________
*Đây
là loạt bài thơ về Aleksandr Blok. Có một dòng khó hiểu trong bài này là “Tên của
anh – bao gồm năm chữ cái”. Tên họ Blok (Блок) nếu theo cách viết hiện nay thì
chỉ bao gồm bốn chữ cái nhưng bài thơ này viết trước Cách mạng tháng Mười, thời
đó tên “Блок” được viết là “Блокъ” – nghĩa là bao gồm năm chữ cái.
Имя твое — птица в руке
Имя твое — птица в руке,
Имя твое — льдинка на языке.
Одно-единственное движенье губ.
Имя твое — пять букв.
Мячик, пойманный на лету,
Серебряный бубенец во рту.
Камень, кинутый в тихий пруд,
Всхлипнет так, как тебя зовут.
В легком щелканье ночных копыт
Громкое имя твое гремит.
И назовет его нам в висок
Звонко щелкающий курок.
Имя твое — ах, нельзя! —
Имя твое — поцелуй в глаза,
В нежную стужу недвижных век.
Имя твое — поцелуй в снег.
Ключевой, ледяной, голубой глоток…
С именем твоим — сон глубок.
159. ANH ĐI QUA PHÍA TÂY CỦA MẶT TRỜI
Anh đi qua phía tây của mặt trời
Ánh sáng buổi hoàng hôn anh thấy hết
Anh đi qua phía tây của mặt trời
Và bão tuyết xóa không còn dấu vết.
Vẻ thờ ơ – qua cửa sổ của tôi –
Anh đi vào sự lặng im của tuyết
Anh – người mộ đạo của tôi tuyệt đẹp
Ánh sánh thanh bình cho cõi lòng tôi.
Tâm hồn của anh – tôi không thèm muốn
Chẳng có gì phá nổi con đường anh.
Vào bàn tay tái nhợt từ nụ hôn
Chiếc đinh của mình tôi không đem đóng.
Bằng tên gọi, tôi không hề hưởng ứng
Không chìa ra đem vẫy những bàn tay.
Với vẻ mặt bằng sáp đầy thánh thiện
Chỉ cúi mình ngưỡng mộ chốn xa xôi.
Vì tuyết rơi chầm chậm dưới bàn chân
Tôi khi đó cúi mình trong tuyết trắng
Và vì cái tên của anh thánh thiện
Tôi hôn vào bông tuyết buổi chiều hôm.
Ở nơi đó bằng bước đi trang nghiêm
Anh
đi vào trong nấm mồ yên lặng
Ánh
sáng dịu êm – vinh quang thần thánh –
Với
hồn tôi là ảnh Chúa toàn năng.
1916
_________________
*Các
bài Tên của anh – con chim trong bàn tay; Anh đi qua phía tây của mặt trời;
Cho con thú – cái hang; Ở Moskva của tôi – mái vòm cháy lên là những bài
thơ từ chùm thơ về A. Blok.
Ты проходишь на Запад Солнца
Ты проходишь на Запад Солнца,
Ты увидишь вечерний свет,
Ты проходишь на Запад Солнца,
И метель заметает след.
Мимо окон моих - бесстрастный -
Ты пройдешь в снеговой тиши,
Божий праведник мой прекрасный,
Свете тихий моей души.
Я на душу твою - не зарюсь!
Нерушима твоя стезя.
В руку, бледную от лобзаний,
Не вобью своего гвоздя.
И по имени не окликну,
И руками не потянусь.
Восковому святому лику
Только издали поклонюсь.
И, под медленным снегом стоя,
Опущусь на колени в снег,
И во имя твое святое,
Поцелую вечерний снег. -
Там, где поступью величавой
Ты прошел в гробовой тиши,
Свете тихий-святыя славы -
Вседержитель моей души.
160.
CHO CON THÚ – CÁI HANG
Cho
con thú – cái hang
Người
lữ thứ – con đường
Người
chết – xe đưa đám
Mỗi
người – có của mình.
Cho
phụ nữ – tinh ranh
Sa
hoàng – việc cai trị
Còn
việc tôi – thì chỉ
Ca
ngợi cái tên anh.
1916
Зверю – берлога
Зверю - берлога,
Страннику - дорога,
Мертвому - дроги.
Каждому-свое.
Женщине - лукавить,
Царю-править,
Мне-славить
Имя твое.
161. Ở MOSKVA CỦA TÔI – MÁI VÒM CHÁY LÊN
Ở Moskva của tôi – mái vòm cháy lên
Ở Moskva của tôi – tiếng chuông ngân vang
Những lăng mộ ở nơi này thành dãy
Đang ngủ yên những bà chúa, ông hoàng.
Anh không biết rằng bình minh ở Kremlin
Thở nhẹ nhàng hơn khắp mọi nơi trên trần
Bình
minh ở điện Kremlin, anh không biết
Tôi
cầu nguyện cho anh – đến bình minh!
Anh
bước đi trên dòng sông Nê-va
Thì
lúc này trên sông Moskva
Tôi
đứng đây, mái đầu tôi cúi xuống
Những
ngọn đèn cũng đan kết giao hòa.
Suốt
những đêm không ngủ tôi yêu anh
Suốt
những đêm không ngủ tôi nghe anh
Và
khắp cung điện Kremlin lúc ấy
Đã
thức giấc tất cả người đánh chuông.
Nhưng
sông của tôi – cùng với sông anh
Nhưng
bàn tay tôi – cùng với tay anh
Không
gặp nhau. Niềm vui tôi thì chỉ
Ánh
bình minh không đuổi kịp – bình minh.
У меня в Москвет - купола горят
У меня в Москвет - купола горят!
У меня в Москве - колокола звонят!
И гробницы в ряд у меня стоят, -
В них царицы спят, и цари.
И не знаешь ты, что зарей в Кремле
Легче дышится - чем на всей земле!
И не знаешь ты, что зарей в Кремле
Я молюсь тебе - до зари!
И проходишь ты над своей Невой
О ту пору, как, над рекой - Москвой
Я стою с опущенной головой,
И слипаются фонари.
Всей бессонницей я тебя люблю,
Всей бессонницей я тебе внемлю -
О ту пору, как по всему Кремлю
Просыпаются звонари...
Но моя река - да с твоей рекой,
Но моя рука - да с твоей рукой
Не сойдутся. Радость моя, доколь
Не догонит заря - зари.
162. TÂM HỒN (KHÔNG PHẢI LÀ KẺ MẠO DANH)
Không phải là kẻ mạo danh – tôi đi về nhà mình
Và cũng không là đầy tớ – bánh mì tôi không cần
Tôi là đam mê của người, sự nghỉ ngơi ngày chủ nhật
Là bầu trời thứ bảy của người, ngày thứ bảy trong tuần.
Người ta đã từng cho tôi đồng xu nhỏ trên trần
Và đá cối xay người ta đã treo vào xung quanh cổ.
Người dấu yêu! Chẳng lẽ người không hề biết rõ?
Tôi là con én nhỏ của người – là Tâm Hồn!
1918
________________________
* Bài thơ “Tâm hồn (Không phải là kẻ mạo danh)” là sự thể hiện thế giới quan của nữ thi sĩ và là những lời hướng tới Thiên Chúa như một người rất gần gũi và thân yêu. Tâm hồn (Psyche) trở về nhà mình là trời xanh, đến với người yêu dấu là Thiên Chúa, Đấng đã sai mình xuống mặt đất để tìm hạnh phúc, tình yêu và những niềm vui khác. Sau đó Tâm hồn trở về với lời phàn nàn rằng nàng đã chịu nhiều đắng cay và bất hạnh trên trái đất, trong thế giới trần gian... Tâm hồn (Psyche) - trong thần thoại Hy Lạp là hiện thân của linh hồn, hơi thở. Con én là biểu tượng của sự khát khao đồ ăn của tâm linh, một sứ giả của lòng tốt, hạnh phúc, một sự khởi đầu; người trung gian giữa thế giới này và thế giới nọ. Có thể coi bài thơ này và bài tiếp theo là một lời xưng tội. Nhà thơ viết về bản thân mình, về số phận của mình.
Психея (Не самозванка — я пришла домой)
Не самозванка — я пришла домой,
И не служанка — мне не надо хлеба.
Я страсть твоя, воскресный отдых твой,
Твой день седьмой, твое седьмое небо.
Там, на земле, мне подавали грош
И жерновов навешали на шею.
Возлюбленный! Ужель не узнаешь?
Я ласточка твоя — Психея!
163.TRẢ VỀ NGƯỜI THỨ NÁT BƯƠM TỪNG MẢNH
Trả về người, thứ nát bươm từng mảnh
Xưa một thời là thân xác dịu dàng.
Con đã làm cho rách nát, tan tành
Chỉ còn lại một thứ – là đôi cánh.
Xin cho con vẻ huy
hoàng xán lạn
Xin hãy bao dung và
cứu rỗi con.
Còn những gì đã
rách nát đáng thương
Xin người hãy cho
vào kho đồ thánh.
1918
На тебе, ласковый мой, лохмотья
На тебе, ласковый мой, лохмотья,
Бывшие некогда нежной плотью.
Всю истрепала, изорвала, -
Только осталось что два крыла.
Одень меня в свое великолепье,
Помилуй и спаси.
А бедные истлевшие отрепья
Ты в ризницу снеси.
164. CÓ PHẢI TA, NGƯỜI KHÔNG CẦN THỨ GÌ
Có phải ta, người không cần thứ gì
Ngoài ánh mắt nóng bỏng người xa lạ
Vâng, những chùm màu hổ phách của nho –
Có phải ta, từng vuốt ve nhiều quá
Giờ than vãn về mi, hở đam mê!
Giống như trong giờ nước đang đóng băng
Ta lại mơ về mi, ôi cái chết
Về niềm ân huệ của mi lạnh ngắt
Như người mơ về chiếc giường của mình
Sau khi mệt mỏi vì nhiều ôm ấp.
1917
Мне ль, которой ничего не надо
Мне ль, которой ничего не надо,
Кроме жаркого чужого взгляда,
Да янтарной кисти винограда, -
Мне ль, заласканной до тла и всласть,
Жаловаться на тебя, о страсть!
Все же в час как леденеет твердь
Я мечтаю о тебе, о смерть,
О твоей прохладной благодати -
Как мечтает о своей кровати
Человек, уставший от объятий.
165. ĐẮNG CAY! ĐẮNG CAY! DƯ VỊ MUÔN THUỞ
Đắng cay! Đắng cay! Dư vị muôn thuở
Ôi đam mê, trên bờ môi của người!
Đắng cay! Đắng cay! Thử thách muôn đời –
Sự mất mát sẽ lại càng triệt để.
Tôi đây vì đắng cay – mà tôi hôn
Tất cả những ai trẻ trung và đẹp.
Còn anh vì đắng cay – cùng người khác
Tay
trong tay anh đi dạo hằng đêm.
Tôi
ăn bánh mì, uống nước – như người ta
Đắng
cay – khổ đau, đắng cay – buồn bã.
Vẫn
có một loài cỏ hoa như thế
Trên
đồng cỏ của người, ôi Nước Nga.
1917
Горечь! Горечь! Вечный привкус
Горечь! Горечь! Вечный привкус
На губах твоих, о страсть!
Горечь! Горечь! Вечный искус —
Окончательнее пасть.
Я от горечи — целую
Всех, кто молод и хорош.
Ты от горечи — другую
Ночью за руку ведешь.
С хлебом ем, с водой глотаю
Горечь-горе, горечь-грусть.
Есть одна трава такая
На лугах твоих, о Русь.
1917
166.TÀU NGƯNG VÔ THỜI HẠN
Tàu ngưng vô thời hạn
Họa mi cũng lặng ngừng.
Bao lần ta muốn sống
Và chết bấy nhiêu lần!
Mệt như thời trẻ con
Không còn chơi xổ số
Người hạnh phúc không tin
Rằng còn bao đời nữa.
Бессрочно кораблю не плыть
Бессрочно кораблю не плыть
И соловью не петь.
Я столько раз хотела жить
И столько умереть!
Устав, как в детстве от лото,
Я встану от игры,
Счастливая не верить в то,
Что есть еще миры.
Thơ về Marina Tsvetaeva
George Adamovich (1894 – 1972)
1. Tưởng nhớ Marina Tsvetaeva
Ta hãy trò chuyện, dù bây giờ,
Marina
Khi sống thì không cần. Giờ chị
không còn nữa.
Nhưng mà tôi vẫn nghe giọng thiên
nga
Như người báo tin mừng, người đưa
tin tai họa.
Khi sống thì không cần. Tôi không
buộc tội.
Văn chương là đi vào địa ngục thôi
mà
Cửa đi vào – mừng vui không giấu nổi
Nhưng chẳng một ai tìm thấy đường
ra.
Tôi không có lỗi. Đời đớn đau nhiều
thế.
Và tôi cũng không trách chị điều gì.
Tất cả đều ngẫu nhiên, tất cả đều nô
lệ
Sống thật diệu kỳ. Ta sống chẳng ra
chi.
Maria Petrovyk
2. Bốn cái dấu chỉ đường
Akhmatova, Pasternak
Tsvetaeva, Mandelstam
Bốn cái tên khăng khít
Bốn cái dấu chỉ đường.
Ánh sáng của họ kiên gan
Mối liên hệ bí huyền sáng tỏ
Không thể dập tắt vì tinh tú
Muôn đời riêng, muôn đời chung.
Ngôi sao với ngôi sao trả lời
Với ta – đó là bộ tứ
Như bốn phương của đất trời
Bốn mùa trong năm đầy đủ.
Thế kỷ ta đánh dấu sự công bằng
Của bốn người, không có gì phải giấu
Nỗi sợ hãi đã từng dồn vào họ
Đơn giản là khép kín một ô vuông.
Một gia đình, hai chị, hai anh
Ngôi nhà gỗ bốn góc, bốn hướng…
1962
Veniamin Aizenshtadt (1921- 1991)
3. Khi tôi nói “Tsvetaeva”
Khi tôi nói “Tsvetaeva”, là tôi khóc
Giống như chết sau ba ngày tôi lại
được hồi sinh
Báo tin về cái điều không may đầy
khoái lạc
Về vị trí đầu tiên và tai họa của
nàng.
Tôi muốn báo tin về sự bần cùng rất
đặc biệt
Không mấy ai nghèo ở trong chốn thâm
sơn
Bước qua ngưỡng cửa quan tài không
sơn phết
Rồi sau đó trải ra kho báu của tâm
hồn.
Không hiểu tại sao nhưng tôi mơ thấy
Marina
Khi như kẻ đi lang thang trong bình
minh buổi sớm
Khi như người bạn đồng hành của Chúa
Giê-su
Khi lại như con chó cà nhắc trong
sân rộng.
Khi tôi nói “Tsvetaeva”, là tôi đau đớn
Có vẻ như tôi đã lấy đi cắc bạc cuối
cùng
Của cái người đã trao mình rất tự
nguyện
Trao hết mình từ con tim đến bàn
chân.
Khi tôi nói “Tsvetaeva”, là một nửa thế gian
Theo sau tôi bầy chó và những người
hành khất
Marina ơi, tôi cay đắng thở bằng tấm
lòng
Có vẻ như người mẹ và quan tài trên
bờ môi đang khóc.
Galina Danilieva
4. Tiếng vọng không yên
Vẫn lang thang một tiếng vọng không
yên
Không giữa núi đồi hay trong rừng
thẳm
Trên ngực chị tiếng gõ vào tuyệt
vọng
Và chiếc kim trên cân đã bị quên.
Vẫn lang thang tiếng vọng… chị có nghe
Đừng lẫn lộn – một tiếng kêu tha thiết!
Vào cuốn vở, có thể, là hãy viết
Một lời khổ đau hành hạ: “A-a-a!”
Tiếng vọng lang thang – lời đã nói ra
Một lời nào – những say mê tiệc lễ
Yêu chị sau một trăm năm trôi qua
Và tiếp theo – sẽ muôn đời, là thế.
Vẫn lang thang một tiếng vọng không
nhà
Và khát khao hòa một khúc ca mới…
Viết hiệu lệnh bằng một ngôi sao sa
Đường của thi nhân – đường ngôi sao chổi.
1994
Nhại thơ
Tsvetaeva
Aleksandr Finkel
5. Marina Tsvetaeva
Ngày hôm qua chỉ âu yếm dịu dàng
Ánh hào quang của màu đen và trắng
Thế mà hôm nay ghét không thể tưởng
“Anh
yêu ơi, em đã làm gì anh?”
Ngày hôm qua hãy còn nằm dưới chân
Em đáp lại, ngắm nhìn anh mê mải
Thế mà hôm nay bỏ chạy vào rừng
“Anh
yêu ơi, em đã làm gì thế?”
Và chó sói xám trong rừng thông dữ
Bị người ta bắt cóc được mang về
Anh của em cứ giậm chân tại chỗ
Anh của em – đừng ăn thịt em nghe.
Chỉ những bàn chân và một chiếc sừng
Chỉ bàn chân và sừng em còn kịp
Sừng và chân của kẻ thù thu xếp
“Anh
yêu ơi, em đã làm gì anh?”
Biết sống làm sao bây giờ – trong lửa?
Băng giá làm sao đi đến thảo nguyên?
Đấy là điều anh đã làm cho em!
“Anh
yêu ơi, em đã làm gì thế?”
1924
Marina
Tsvetaeva
(Mục lục 166 bài Song Ngữ)
1. Tôi thích
rằng anh đau chẳng vì tôi
2. Tháng chạp
và tháng giêng
3. Sự trìu
mến nhường kia từ đâu vậy
4. Mới hôm
qua anh còn nhìn mắt em
5. Chỉ là hai
tiếng vang
6. Trừ lại
tình yêu
7. Chỉ là cô
gái
8. Giữa hai
ta là vực.
9. Những màn
sương xưa cũ của tình
10. Rouge ет bleue
11. Perpetuum
mobile
12. Trong
ngày thứ bảy
13. Bài
hát ru cho Asya
14. Giống hệt như ta,
người qua đường
15. Tôi sống rất mẫu
mực và giản dị thôi
16. Đã chán rồi hát
hò và tranh luận
17. Mà tình yêu? Đối
với trẻ mục đồng
18. Người giàu có –
yêu một cô gái nghèo
19. Hạnh
phúc
20. Sau
ngày lễ
21. Sau khi khách
ra về
22. Dáng đi của tôi
thật nhẹ nhàng
23. Tôi là trang giấy
cho ngòi bút của Người
24. Khốn khổ cho ai
mạnh mẽ, giàu sang
25. Mèo
26. Nếu như hạnh phúc gõ cửa
27. Em muốn được sống
cùng anh
28. Vô khối người đẹp,
còn anh một mình
29. Anh đi về những
xứ sở xa xăm
30. Tên Marina trên
dao găm của mình
31. Kết
quả trong ngày
32. Ở
thiên đường
33. Chiến
thắng
34. Chẳng nơi nọ, nơi
này
35. Cỏ mộc
tê và hoa hồng
36. Một bức thư
trên trang giấy màu hồng
37. Đêm
cuối năm
38. Một nửa ô cửa sổ
đã mở ra
39. Thật ngọt ngào
– hai người chung một ngựa
40. Tôi
không nghĩ suy
41. Chiến
tranh, chiến tranh
42. Bạn thân yêu về
bên kia đại dương
43. Từng con sóng cuộn
tròn bên tảng đá
44. Lá vàng rơi lả tả
45. Tôi đã từng gặp
anh những ba lần
46.
Anh hãy bước vào không cần gõ cửa
47.
Khi em buồn – em suy nghĩ về anh
48. Gửi
anh trong mùa thứ năm của năm
49. Không
gặp gỡ
50. Em
hạnh phúc không?
51. Dưới vẻ dịu dàng
của tấm khăn nhung
52. Em đã từng rất lười
mặc áo quần
53. Hãy nhớ rằng: tôi
quí hơn tất cả
54. Hai kết
cục
55. Từ thơ
của M. D. V
56. Đám mây
trắng có đường viền màu hồng
57. Ngôi nhà
nhỏ màu hồng
58. Những giọt
lệ
59. Lời chào
từ trên tháp
60. Nàng Bạch
Tuyết
61. Đò ngang
62. Trên vai
phải của tôi
63. Những tên
buôn lậu và những tên cướp
64. Liên minh
tay ba
65. Không phải
tình yêu, mà là cơn sốt nóng
66. Lấy khăn
quấn thành vòng
67. Kết bạn
với em không nên
68. Chưa thể
yên lòng một khi chưa thấy
69. Hãy hôn
đứa con gái
70. Đôi bàn
tay, đôi bờ môi vô thường
71. Chẳng phải
hôn nhau – chỉ là đặt nhẹ
72. Hai tiếng
huýt bên tai
73. Trong thành
phố lớn của tôi
74. Tôi như
bọt phù du
75. Không nói
rằng đã sống
76. Lòng dũng
cảm và trinh tiết
77. Trong
đêm tối
78. Tưởng
nhớ Sergei Esenin
79. Anh và
em thật khác
80. Tâm
hồn và tên
81. Với vẻ
dịu dàng lớn lao
82. Mỗi
câu thơ – đứa con của tình yêu
83. Lời
cầu nguyện
84. Niềm
đam mê Digan
85. Từ cổ
tích đi vào cổ tích
86. Hai
mặt trời tắt ngấm
87. Tôi sẽ
chết trong bình minh
88. Anh
yêu em bằng sự dối lòng
89. Già
hơn cả tình yêu
90. Một
bông hoa nhỏ găm trên ngực
91. Như
bàn tay phải, như bàn tay trái
92. Tôi
yêu anh cả đời và mỗi ngày
93. Trong
ngày giã biệt
94. Gửi
Maiakovsky
95. Họ và
chúng ta
96. Trẻ
con
97. Dòng
chữ đề trong cuốn anbom
98. Hạnh
phúc
99. Gửi mẹ
100. Bông
hồng đầu tiên
101. Những trò chơi dại dột
102. Chúc thượng lộ bình an!
103. Chuyện cổ tích tháng chạp
104. Dưới mưa
105. Anh hãy nhìn chăm chú
106. Anh xa lạ mà không hề xa lạ
107. Ở Schonbrunn
108. Ly biệt
109. Thơ mộ chí
110. Sự thật
111. Quí
bà đêm giáng sinh
112. Không
rời nhau trên một con đường
113. Đêm
vũ hội đầu tiên
114. Tôi
viết tặng những dòng thơ này
115. Gửi ngưòi phụ nữ với những cây hoa trà
116. Trái tim và tâm hồn
117. Anh
sinh ra là thiếu sinh quân, là ca sĩ.
118. Trăng
non
119. Không!
Hãy còn cơn đói của tình
120. Bảy thanh kiếm đâm vào con tim
121. Những
đêm thiếu người yêu
122. Tặng
T. V. Churilin
123. Tặng
Bryusov
124. Gửi
Balmont
125. Gửi Mandelstam
126. Vĩnh biệt đến muôn đời
127. Thanh
lương trà thắm đỏ
128. Ý thích hoang dại
129. Lại một ô cửa sổ
130. Điều lầm lỗi dễ thương
131. Gửi mẹ
132. Thêm
một lời cầu nguyện
133. Ở Paris
134. Tặng Maiakovsky
135. Trên mắt những giọt lệ
136. Những cuốn sách bìa đỏ
137. Gửi Byron
138. Văn mộ chí
139. Hãy tha lỗi cho tôi
140. Tha lỗi nhé, Nina
141. Ký ức trái tim
142. Gửi P. Antakolsky
143. Tựa hồ như giọt nước mắt nóng bỏng
144. Chim
thì thích bay vào rừng
145. Anh gọi
tôi là đồ phóng đãng
146. Trong
nhà anh, mọi thứ
147. Nước Nga
ơi, xin Người đừng xấu hổ!
148. Anh gọi
tôi là hư thân, đồi bại
149. Anh gọi
tôi là hư thân, đồi trụy
150. Nhà của
anh bị trộm
151. Tôi
đã mệt mỏi làm một quí bà
152.
Trong cuốn sách chết người
153.
Như lời khen châm chích và trau chuốt
154.
Tôi biết một sự thật
155.
Tôi trao cuốn sách này cho cơn gió thoảng
156. Và Chúa nói rằng
157.
Thời tuổi trẻ màu hồng
158.
Tên của anh – con chim trong bàn tay
159.
Anh đi qua phía tây của mặt trời
160.
Cho con thú – cái hang
161.
Ở Moskva của tôi – mái vòm cháy lên
162. Tâm hồn (Không
phải là kẻ mạo danh)
163. Trả về người, thứ
nát bươm từng mảnh
164.
Có phải ta, người không cần thứ gì
165.
Đắng cay! Đắng cay! Dư vị muôn thuở
166. Tàu ngưng vô thời hạn
Thơ về M. Tsvetaeva và nhại thơ Tsve: 5
George
Adamovich
Tưởng nhớ
Marina Tsvetaeva
Maria
Petrovyk
Bốn cái
dấu chỉ đường
Veniamin
Aizenshtadt
Khi tôi
nói “Tsvetaeva”
Galina
Danilieva
Tiếng vọng
không yên
Aleksandr
Finkel
Marina
Tsvetaeva
Tuyệt vời
Trả lờiXóa