Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

Thơ Marina Tsvetaeva - Phần 7



139. HÃY THA LỖI CHO TÔI

Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi bao ngọn núi!
Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi những dòng sông!
Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi những cánh đồng!
Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi bao cây cối!”

Người mẹ đeo thập ác vào cho người lính
Mẹ vĩnh biệt muôn đời cùng với đứa con
Và lần nữa từ túp lều còng lưng xuống:
Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi những dòng sông!”
1918

Простите меня, мои горы!

«Простите меня, мои горы!
Простите меня, мои реки!
Простите меня, мои нивы!
Простите меня, мои травы!»

Мать - крест надевала солдату,
Мать с сыном прощались навеки...
И снова из сгорбленной хаты:
«Простите меня, мои реки!»
1918



140. THA LỖI NHÉ, NINA

Vĩnh biệt nhé! Không nghĩ rằng lần nữa
Trời còn cho ta gặp lại trong đời!
Chị hãy tin rằng sức ta không đủ
Để tìm ra cho hòa giải những lời.
Hình bóng chị vẫn dễ thương muôn đời
Và con tim sẽ sống vui muôn thuở
Nhưng dù sao, không nghĩ rằng lần nữa
Trời còn cho ta gặp lại trong đời!
1910
_____________
*Bài thơ về Nina Kornelievna Vinogradova, em gái của nhà văn Anatoly Kornelievich Vinogradov (1888 – 1946), bạn gái thời trẻ của Tsvetaeva.

“Прости” Нине”

Прощай! Не думаю, чтоб снова
Нас в жизни Бог соединил!
Поверь, не хватит наших сил
Для примирительного слова.
Твой нежный образ вечно мил,
Им сердце вечно жить готово, -
Но все ж не думаю, чтоб снова
Нас в жизни Бог соединил!
1910





141. KÝ ỨC TRÁI TIM

Ký ức trái timbằng hoa đừng quên tôi nhé
Tôi quấn vòng quanh bức chân dung của anh.
Ban ngày làm dịu bớt, chữa lành cho tâm trí
Nhưng buổi tối thì không.

Những bước chân thơ thẩn trong gian phòng buồn
Thơ thẩn, chờ mong, có đến câu trả lời không chứ.
“Tất cả rồi sẽ lành”, người ta bảo tôi như thế…
Nhưng buổi tối thì không.
1906 – 1920

Памятью сердца

Памятью сердца — венком незабудок
Я окружила твой милый портрет.
Днём утоляет и лечит рассудок,
Вечером — нет.

Бродят шаги в опечаленной зале,
Бродят и ждут, не идут ли в ответ.
«Всё заживает», мне люди сказали…
Вечером — нет.
1906 – 1920



142. GỬI P. ANTAKOLSKY

Tôi sẽ tặng cho anh chiếc nhẫn bằng sắt:
Chứng mất ngủ tuyệt vọng và hân hoan.
Đ anh không nhìn các cô em vào mặt
Đ anh quên đi ngay cả lờidịu dàng.

Đ cái đầu của anh trong mái tóc xoăn
Như cốc bọt đưa lên trong không khí
Đ cái thứ đ trang sức bằng sắt ấy
Sẽ chuyển anh thành tro bụi và than.

Còn khi vào mái tóc tiên tri của anh
Tình yêu tự mình đặt hòn than đỏ
Thì anh hãy ép chặt vào môi và lặng lẽ
Chiếc nhẫn sắt trên ngón tay ngăm đen.

Đấy là bùa khỏi những bờ môi thắm cho anh
Là mắt xích đầu tiên cho anh như áo giáp
Để anh đứng như cây sồi trong ngày bão táp
Như Thượng Đế đứng trong vòng sắt của mình!
1919

П. Антакольскому

Дарю тебе железное кольцо:
Бессонницу - восторг - и безнадежность.
Чтоб не глядел ты девушкам в лицо,
Чтоб позабыл ты даже слово - нежность.

Чтоб голову свою в шальных кудрях
Как пенный кубок возносил в пространство,
Чтоб обратило в угль - и в пепл - и в прах
Тебя - сие железное убранство.

Когда ж к твоим пророческим кудрям
Сама Любовь приникнет красным углем,
Тогда молчи и прижимай к губам
Железное кольцо на пальце смуглом.

Вот талисман тебе от красных губ,
Вот первое звено в твоей кольчуге, -
Чтоб в буре дней стоял один - как дуб,
Один - как Бог в своем железном круге!
1919


Thơ bốn câu

143. TỰA HỒ NHƯ GIỌT NƯỚC MẮT NÓNG BỎNG

Tựa hồ như giọt nước mắt nóng bỏng
Trên mắt tôi một giọt nước mắt rơi.
Trên trời xanh, trên trời cao lắm
Có ai người khóc ấm ức về tôi.

Словно теплая слеза

Словно теплая слеза -
Капля капнула в глаза.
Там, в небесной вышине,
Кто-то плачет обо мне.


 

144. CHIM THÌ THÍCH BAY VÀO RỪNG

Chim thì thích bay vào rừng
Dù cho chim ăn hay không
Em kéo anh ra từ rác rưởi
Đem về rác rưởi của mình.

Птичка все же рвется в рощу

Птичка все же рвется в рощу,
Как зерном ни угощаем,
Я взяла тебя из грязи, -
В грязь родную возвращаю.



145. ANH GỌI TÔI LÀ Đ PHÓNG ĐÃNG

Anh gọi tôi là đ phóng đãng
Nhưng có một điều nhỏ nhặt vẫn quên:
Tôi cần người khách của tôi cao lớn
Và đ cho người ấy chẳng trả tiền.

Ты зовешь меня блудницей

Ты зовешь меня блудницей, -
Прав, - но малость упустил:
Надо мне, чтоб гость был статен,
Во - вторых - чтоб не платил.



146. TRONG NHÀ ANH MỌI THỨ

Trong nhà anh, mọi thứ
Khóa kỹ, trừ con tim
Chỉ những gì của em
Xếp đặt không trật tự.

Всe в ваших домах

Всe в ваших домах
Под замком, кроме сердца.
Лишь то мое в доме,
Что плохо лежит.


 

147. NƯỚC NGA ƠI XIN NGƯỜI ĐỪNG XẤU HỔ

Nước Nga ơi, xin Người đừng xấu hổ!
Những thiên thầnmãi mãi chân không
Những đôi giày đã lấy đi lũ quỉ.
Giờ chỉ sợ ai có giày dưới chân!

Не стыдись, страна Россия

Не стыдись, страна Россия!
Ангелы - всегда босые...
Сапоги сам черт унес.
Нынче страшен - кто не бос!



148. ANH GỌI TÔI LÀ HƯ THÂN ĐỒI BẠI

Anh gọi tôi là hư thân, đồi bại
Nhưng mà anh hãy chớ quên rằng:
Tôi thà ép môi vào lò sưởi
Còn hơn là hôn anh.

Ты зовешь меня блудницей

Ты зовешь меня блудницей, -
Прав, - но все ж не забывать:
Лучше к печке приложиться,
Чем тебя поцеловать.



149. ANH GỌI TÔI LÀ HƯ THÂN ĐỒI TRỤY

Anh gọi tôi là hư thân, đồi trụy
Hãy nghe đây, này cậu bé học trò!
Tôi cần đ cho người khách tế nhị
Và đ cho anh sẽ phải ra đi.

Ты зовешь меня блудницей:
- Слушай, выученик школ!
Надо мне, чтоб гость был вежлив,
Во - вторых - чтоб ты ушел.



150. NHÀ CỦA ANH BỊ TRỘM

Nhà của anh bị trộm
Em đâu có lỗi gì
Chỉ đ em trong nhà
Xếp đặt rất lộn xộn.

Твой дом обокраден

Твой дом обокраден,
Не я виновата.
Лишь то - мое - в доме,
Что плохо лежит.



151. TÔI ĐÃ MÊT MỎI LÀM MỘT QUÍ BÀ

Tôi đã mệt mỏi làm một quí bà
Dễ chịu hơn nhiều được làm nô lệ.
Đ bàn tay với mái tóc làm chủ
Còn những con mắtdòng lệ tuôn ra.

Tôi đã mệt mỏi làm một quí bà
Dễ chịu hơn nhiều được làm nô lệ.
Đ bàn tay chỉ quay tơ xe chỉ
Trước cái chết giống như cây lanh kia.
1920

Я устала быть госпожой

Я устала быть госпожой.
Мне приятнее быть рабой.
Чтобы руки владели косой,
А глазища – слезой.

Я устала быть госпожой,
Мне приятнее быть рабой,
Чтоб привычной рукою прясть
Перед смертию лен.
1920





152. TRONG CUỐN SÁCH CHẾT NGƯỜI

Trong cuốn sách chết người
Không có cám dỗ dành cho phụ nữ
Ars Amandi – Nghệ thuật Tình ái
Với phụ nữ – là cả trái đất này.

Con tim – thuốc độc của tình yêu
Thuốc độc – chính xác hơn tất cả.
Đàn bà từ thuở còn nằm trên nôi
Đã là lỗi lầm dành cho ai đó.

Chao ôi, đến trời xanh thì xa quá!
Mà những bờ môi thì gần gũi trong sương
Chúa ơi xin đừng phán xét! – Ngài chưa từng
Làm một đàn bà ở nơi trần thế!
1915
________________
*Bài thơ nói về số kiếp và sự tiền định của người phụ nữ. Ars Amandi – nghĩa là Nghệ thuật yêu, là tên một tác phẩm của nhà thơ La Mã cổ đại Publius Ovidius Naso (thế kỷ 1). Tsvetaeva cho rằng cuốn sách này chỉ cần cho đàn ông chứ phụ nữ tự thân đã là sự thể hiện của cả trái đất, là một Eva muôn thuở, từ thuở còn nằm trong nôi đã là sự cám dỗ (lầm lỗi) dành cho ai đó rồi.

В гибельном фолианте

В гибельном фолианте
Нету соблазна для
Женщины. - Ars Amandi
Женщине - вся земля.

Сердце - любовных зелий
Зелье - вернее всех.
Женщина с колыбели
Чей-нибудь смертный грех.

Ах, далеко до неба!
Губы - близки во мгле...
- Бог, не суди! - Ты не был
Женщиной на земле!

  


153. NHƯ LỜI KHEN CHÂM CHÍCH VÀ TRAU CHUỐT

Như lời khen châm chích và trau chuốt
Dưới bầu trời La Mã, giữa hiên đêm
Như chiếc chén chết trong vòng hoa hồng
Có hai lời như thế đầy ma thuật.

Người chết đứng dậy như lệnh của ai
Chúa lặng im – tin tức này của gió
Người ngoại giáo – sự trả thù ngoại giáo
Tôi chưa bao giờ đọc “Nghệ thuật Yêu”!

Màu xanh trời, xanh mắt của người yêu
Làm tôi mù mắt. – Nhà thơ đừng giận
Tiếng Latinh không học kịp nữa đâu.

Những người tình có đọc Ô-vi-đi-ô?!
Bạn bè có đọc sách em? Đừng phủ nhận
Người kế thừa nhân vật của em nghe!
1915
________________
* Nghệ thuật Yêu – tức cuốn Ars Amandi – một tác phẩm của nhà thơ La Mã cổ đại Publius Ovidius Naso (thế kỷ 1). Bài thơ “Trong cuốn sách chết người” và bài này Tsvetaeva viết trong thời kỳ tình yêu sôi nổi với nữ nhà thơ Sophia Parnok.

Как жгучая, отточенная лесть

Как жгучая, отточенная лесть
Под римским небом, на ночной веранде,
Как смертный кубок в розовой гирлянде -
Магических таких два слова есть.

И мертвые встают как по команде,
И Бог молчит - то ветреная весть
Язычника - языческая месть:
Не читанное мною Ars Amandi!

Мне синь небес и глаз любимых синь
Слепят глаза. - Поэт, не будь в обиде,
Что времени мне нету на латынь!

Любовницы читают ли, Овидий?!
- Твои тебя читали ль? - Не отринь
Наследницу твоих же героинь!



154. TÔI BIẾT MỘT SỰ THẬT

Tôi biết một sự thật! Sự thật trước đây không cần nữa!
Không cần phải tranh đấu với nhau hỡi những người trần.
Hãy nhìn xem: buổi chiều, hãy nhìn xem: đêm sắp tới.
Nghĩ điều chihỡi những nhà thơ, tướng lĩnh, những người tình?

Gió đã thổi rồi, mặt đất đã trong sương
Cơn bão tuyết của sao giữa trời sắp thành băng giá
Rồi chúng ta sẽ nằm dưới đất ngủ yên tất cả
Sao lại không cho nhau ngủ yên trên trần.
1915

Я знаю правду! Все прежние правды-прочь

Я знаю правду! Все прежние правды-прочь!
Не надо людям с людьми на земле бороться.
Смотрите: вечер, смотрите: уж скоро ночь.
О чем — поэты, любовники, полководцы?

Уж ветер стелется, уже земля в росе,
Уж скоро звездная в небе застынет вьюга,
И под землею скоро уснем мы все,
Кто на земле не давали уснуть друг другу.




155. TÔI TRAO CUỐN SÁCH NÀY CHO CƠN GIÓ THOẢNG

Tôi trao cuốn sách này cho cơn gió thoảng
Và cho những con sếu bay ngược chiều.
Kêu lên rằng ly biệt – thì đã từ lâu
Tôi đã không còn giọng.

Cuốn sách này, như cái chai vào con sóng
Tôi sẽ ném vào cơn lốc của chiến tranh.
Để nó sẽ lang thang như là ngọn nến
Từ bàn tay đến bàn tay sẽ được truyền.

Ôi ngọn gió là nhân chứng của tôi rất trung thành
Hãy mang đến tận những người yêu dấu
Rằng tôi đây hằng đêm trong giấc ngủ
Vẫn trên đường từ Bắc dẫn vào Nam.
1920

Я эту книгу поручаю ветру

Я эту книгу поручаю ветру
И встречным журавлям.
Давным-давно - перекричать разлуку -
Я голос сорвала.

Я эту книгу, как бутылку в волны,
Кидаю в вихрь войн.
Пусть странствует она - свечой под праздник -
Вот так: из длани в длань.

О ветер, ветер, верный мой свидетель,
До милых донеси,
Что еженощно я во сне свершаю
Путь - с Севера на Юг.


156. VÀ CHÚA NÓI RẰNG

Và Chúa nói rằng:
- Thân xác trẻ
Hãy đứng lên!

Thân xác nọ thở dài
- Chớ phiền con, Đức Chúa
Cho con được ngủ yên.

Con gái của Giai-ru
Chỉ muốn được yên bình –

Và Chúa bảo:
- Hãy ngủ yên. 
1917
________________
*Bài thơ dựa theo một tích trong Kinh Thánh nói về việc Chúa Giê-su làm cho con gái của Giai-ru sống lại (Phúc Âm Lu-ca: 8, 40-56).
  
И сказал Господь

И сказал Господь:
- Молодая плоть,
Встань!

И вздохнула плоть:
- Не мешай, Господь,
Спать.

Хочет только мира
Дочь Иаира. -

И сказал Господь:
- Спи.



157. THỜI TUỔI TRẺ MÀU HỒNG

Với nụ cười trên những gương mặt màu hồng
Chúng tôi đứng trong bóng đêm bên vách đá tảng.
Giá mà bầu trời bị cháy hết trong ánh chớp nguồn
Ngay trong dấu hiệu rất cương quyết đầu tiên
Và giá mà vách đá tảng đ nhào vào vực thẳm
Ngay trong tiếng gõ rất cương quyết đầu tiên
Nhưng, giá như các bạn biết rằng hãy còn yếu lắm
Những bàn tay của thời tuổi trẻ màu hồng.

Розовая юность

С улыбкой на розовых лицах
Стоим у скалы мы во мраке.
Сгорело бы небо в зарницах
При первом решительном знаке,
И рухнула в бездну скала бы
При первом решительном стуке...
- Но, если б вы знали, как слабы
У розовой юности руки.



Thơ về A. Blok


158. TÊN CỦA ANH – CON CHIM TRONG BÀN TAY

Tên của anh – con chim trong bàn tay
Tên của anh – cục băng nơi đầu lưỡi
Một chuyển động duy nhất của bờ môi
Tên của anh – bao gồm năm chữ cái*.
Quả bóng nhỏ bắt được khi đang bay
Là lục lạc bạc ở trong miệng lưỡi.

Một cục đá ném vào trong ao lặng
Sẽ vang lên như tên gọi của anh.
Giữa tiếng móng guốc nhẹ nhàng trong đêm
Tên của anh sẽ vang lên như sấm.
Tên gọi này như chạm vào thái dương
Nghe đôm đốp y như là cò súng.

Tên của anh – không thể nào sánh được
Tên của anh – nụ hôn vào con mắt
Vào cơn lạnh của thế kỷ lặng ngừng.
Tên của anh – nụ hôn vào tuyết trắng
Một ngụm nước nguồn, băng giá, màu xanh…
Với tên anh – sâu vô cùng giấc mộng.
1916
____________________
*Đây là loạt bài thơ về Aleksandr Blok. Có một dòng khó hiểu trong bài này là “Tên của anh – bao gồm năm chữ cái”. Tên họ Blok (Блок) nếu theo cách viết hiện nay thì chỉ bao gồm bốn chữ cái nhưng bài thơ này viết trước Cách mạng tháng Mười, thời đó tên “Блок” được viết là “Блокъ” – nghĩa là bao gồm năm chữ cái.

Имя твое — птица в руке

Имя твое — птица в руке,
Имя твое — льдинка на языке.
Одно-единственное движенье губ.
Имя твое — пять букв.
Мячик, пойманный на лету,
Серебряный бубенец во рту.

Камень, кинутый в тихий пруд,
Всхлипнет так, как тебя зовут.
В легком щелканье ночных копыт
Громкое имя твое гремит.
И назовет его нам в висок
Звонко щелкающий курок.

Имя твое — ах, нельзя! —
Имя твое — поцелуй в глаза,
В нежную стужу недвижных век.
Имя твое — поцелуй в снег.
Ключевой, ледяной, голубой глоток…
С именем твоим — сон глубок.



159. ANH ĐI QUA PHÍA TÂY CỦA MẶT TRỜI

Anh đi qua phía tây của mặt trời
Ánh sáng buổi hoàng hôn anh thấy hết
Anh đi qua phía tây của mặt trời
Và bão tuyết xóa không còn dấu vết.

Vẻ thờ ơ – qua cửa sổ của tôi
Anh đi vào sự lặng im của tuyết
Anhngười mộ đạo của tôi tuyệt đẹp
Ánh sánh thanh bình cho cõi lòng tôi.

Tâm hồn của anhtôi không thèm muốn
Chẳng có gì phá nổi con đường anh.
Vào bàn tay tái nhợt từ nụ hôn
Chiếc đinh của mình tôi không đem đóng.

Bằng tên gọi, tôi không hề hưởng ứng
Không chìa ra đem vẫy những bàn tay.
Với vẻ mặt bằng sáp đầy thánh thiện
Chỉ cúi mình ngưỡng mộ chốn xa xôi.

Vì tuyết rơi chầm chậm dưới bàn chân
Tôi khi đó cúi mình trong tuyết trắng
Và vì cái tên của anh thánh thiện
Tôi hôn vào bông tuyết buổi chiều hôm.

nơi đó bằng bước đi trang nghiêm
Anh đi vào trong nấm mồ yên lặng
Ánh sáng dịu êm – vinh quang thần thánh –
Với hồn tôi là ảnh Chúa toàn năng.
1916
_________________
*Các bài Tên của anh – con chim trong bàn tay; Anh đi qua phía tây của mặt trời; Cho con thú – cái hang; Ở Moskva của tôi – mái vòm cháy lên là những bài thơ từ chùm thơ về A. Blok.

Ты проходишь на Запад Солнца

Ты проходишь на Запад Солнца,
Ты увидишь вечерний свет,
Ты проходишь на Запад Солнца,
И метель заметает след.

Мимо окон моих - бесстрастный -
Ты пройдешь в снеговой тиши,
Божий праведник мой прекрасный,
Свете тихий моей души.

Я на душу твою - не зарюсь!
Нерушима твоя стезя.
В руку, бледную от лобзаний,
Не вобью своего гвоздя.

И по имени не окликну,
И руками не потянусь.
Восковому святому лику
Только издали поклонюсь.

И, под медленным снегом стоя,
Опущусь на колени в снег,
И во имя твое святое,
Поцелую вечерний снег. -

Там, где поступью величавой
Ты прошел в гробовой тиши,
Свете тихий-святыя славы -
Вседержитель моей души.



160. CHO CON THÚ – CÁI HANG

Cho con thú – cái hang
Người lữ thứ  – con đường
Người chết – xe đưa đám
Mỗi người – có của mình.

Cho phụ nữ – tinh ranh
Sa hoàng – việc cai trị
Còn việc tôi – thì chỉ
Ca ngợi cái tên anh.
1916

Зверю – берлога

Зверю - берлога,
Страннику - дорога,
Мертвому - дроги.
Каждому-свое.

Женщине - лукавить,
Царю-править,
Мне-славить
Имя твое.



161. MOSKVA CỦA TÔIMÁI VÒM CHÁY LÊN

Moskva của tôimái vòm cháy lên
Moskva của tôitiếng chuông ngân vang
Những lăng mộ nơi này thành dãy
Đang ngủ yên những bà chúa, ông hoàng.

Anh không biết rằng bình minh Kremlin
Thở nhẹ nhàng hơn khắp mọi nơi trên trần
Bình minh ở điện Kremlin, anh không biết
Tôi cầu nguyện cho anh – đến bình minh!

Anh bước đi trên dòng sông Nê-va
Thì lúc này trên sông Moskva
Tôi đứng đây, mái đầu tôi cúi xuống
Những ngọn đèn cũng đan kết giao hòa.

Suốt những đêm không ngủ tôi yêu anh
Suốt những đêm không ngủ tôi nghe anh
Và khắp cung điện Kremlin lúc ấy
Đã thức giấc tất cả người đánh chuông.

Nhưng sông của tôi – cùng với sông anh
Nhưng bàn tay tôi – cùng với tay anh
Không gặp nhau. Niềm vui tôi thì chỉ
Ánh bình minh không đuổi kịp – bình minh.

У меня в Москвет - купола горят

У меня в Москвет - купола горят!
У меня в Москве - колокола звонят!
И гробницы в ряд у меня стоят, -
В них царицы спят, и цари.

И не знаешь ты, что зарей в Кремле
Легче дышится - чем на всей земле!
И не знаешь ты, что зарей в Кремле
Я молюсь тебе - до зари!

И проходишь ты над своей Невой
О ту пору, как, над рекой - Москвой
Я стою с опущенной головой,
И слипаются фонари.

Всей бессонницей я тебя люблю,
Всей бессонницей я тебе внемлю -
О ту пору, как по всему Кремлю
Просыпаются звонари...

Но моя река - да с твоей рекой,
Но моя рука - да с твоей рукой
Не сойдутся. Радость моя, доколь
Не догонит заря - зари.




162. TÂM HỒN (KHÔNG PHẢI LÀ KẺ MẠO DANH)

Không phải là kẻ mạo danhtôi đi về nhà mình
Và cũng không là đầy tớbánh mì tôi không cần
Tôi là đam mê của người, sự nghỉ ngơi ngày chủ nhật
Là bầu trời thứ bảy của người, ngày thứ bảy trong tuần.

Người ta đã từng cho tôi đồng xu nhỏ trên trần
Và đá cối xay người ta đã treo vào xung quanh cổ.
Người dấu yêu! Chẳng lẽ người không hề biết rõ?
Tôi là con én nhỏ của ngườilà Tâm Hồn!
1918
________________________
* Bài thơ “Tâm hồn (Không phải là kẻ mạo danh)là sự thể hiện thế giới quan của nữ thi sĩ và là những lời hướng tới Thiên Chúa như một người rất gần gũi và thân yêu. Tâm hồn (Psyche) trở về nhà mình là trời xanh, đến với người yêu dấu là Thiên Chúa, Đấng đã sai mình xuống mặt đất đ tìm hạnh phúc, tình yêu và những niềm vui khác. Sau đó Tâm hồn trở về với lời phàn nàn rằng nàng đã chịu nhiều đắng cay và bất hạnh trên trái đất, trong thế giới trần gian... Tâm hồn (Psyche) - trong thần thoại Hy Lạp là hiện thân của linh hồn, hơi thở. Con én là biểu tượng của sự khát khao đ ăn của tâm linh, một sứ giả của lòng tốt, hạnh phúc, một sự khởi đầu; người trung gian giữa thế giới này và thế giới nọ. Có thể coi bài thơ này và bài tiếp theo là một lời xưng tội. Nhà thơ viết về bản thân mình, về số phận của mình.

Психея (Не самозванка — я пришла домой)

Не самозванка — я пришла домой,
И не служанка — мне не надо хлеба.
Я страсть твоя, воскресный отдых твой,
Твой день седьмой, твое седьмое небо.

Там, на земле, мне подавали грош
И жерновов навешали на шею.
Возлюбленный! Ужель не узнаешь?
Я ласточка твоя — Психея!



163.TRẢ VỀ NGƯỜI THỨ NÁT BƯƠM TỪNG MẢNH

Trả về người, thứ nát bươm từng mảnh
Xưa một thời là thân xác dịu dàng.
Con đã làm cho rách nát, tan tành
Chỉ còn lại một thứlà đôi cánh.

Xin cho con vẻ huy hoàng xán lạn
Xin hãy bao dung và cứu rỗi con.
Còn những gì đã rách nát đáng thương
Xin người hãy cho vào kho đồ thánh.
1918

На тебе, ласковый мой, лохмотья

На тебе, ласковый мой, лохмотья,
Бывшие некогда нежной плотью.
Всю истрепала, изорвала, -
Только осталось что два крыла.

Одень меня в свое великолепье,
Помилуй и спаси.
А бедные истлевшие отрепья
Ты в ризницу снеси.



164. CÓ PHẢI TA, NGƯỜI KHÔNG CẦN THỨ GÌ

Có phải ta, người không cần thứ gì
Ngoài ánh mắt nóng bỏng người xa lạ
Vâng, những chùm màu hổ phách của nho
Có phải ta, từng vuốt ve nhiều quá
Giờ than vãn về mi, hở đam mê!

Giống như trong giờ nước đang đóng băng
Ta lại mơ về mi, ôi cái chết
Về niềm ân huệ của mi lạnh ngắt
Như người mơ về chiếc giường của mình
Sau khi mệt mỏi vì nhiều ôm ấp.
1917

Мне ль, которой ничего не надо

Мне ль, которой ничего не надо,
Кроме жаркого чужого взгляда,
Да янтарной кисти винограда, -
Мне ль, заласканной до тла и всласть,
Жаловаться на тебя, о страсть!

Все же в час как леденеет твердь
Я мечтаю о тебе, о смерть,
О твоей прохладной благодати -
Как мечтает о своей кровати
Человек, уставший от объятий.



165. ĐẮNG CAY! ĐẮNG CAY! DƯ VỊ MUÔN THUỞ

Đắng cay! Đắng cay! Dư vị muôn thuở
Ôi đam mê, trên bờ môi của người!
Đắng cay! Đắng cay! Thử thách muôn đời
Sự mất mát sẽ lại càng triệt đ.

Tôi đây vì đắng caymà tôi hôn
Tất cả những ai trẻ trung và đẹp.
Còn anh vì đắng caycùng người khác
Tay trong tay anh đi dạo hằng đêm.

Tôi ăn bánh mì, uống nước – như người ta
Đắng cay – khổ đau, đắng cay – buồn bã.
Vẫn có một loài cỏ hoa như thế
Trên đồng cỏ của người, ôi Nước Nga.
1917

Горечь! Горечь! Вечный привкус

Горечь! Горечь! Вечный привкус
На губах твоих, о страсть!
Горечь! Горечь! Вечный искус —
Окончательнее пасть.

Я от горечи — целую
Всех, кто молод и хорош.
Ты от горечи — другую
Ночью за руку ведешь.

С хлебом ем, с водой глотаю
Горечь-горе, горечь-грусть.
Есть одна трава такая
На лугах твоих, о Русь.
1917


166.TÀU NGƯNG VÔ THỜI HẠN

Tàu ngưng vô thời hạn
Họa mi cũng lặng ngừng.
Bao lần ta muốn sống
Và chết bấy nhiêu lần! 

Mệt như thời trẻ con
Không còn chơi xổ số
Người hạnh phúc không tin
Rằng còn bao đời nữa.

Бессрочно кораблю не плыть 

Бессрочно кораблю не плыть
И соловью не петь.
Я столько раз хотела жить
И столько умереть!

Устав, как в детстве от лото,
Я встану от игры,
Счастливая не верить в то,
Что есть еще миры. 




Thơ về Marina Tsvetaeva


George Adamovich (1894 1972)

1. Tưởng nhớ Marina Tsvetaeva

Ta hãy trò chuyện, dù bây giờ, Marina
Khi sống thì không cần. Giờ chị không còn nữa.
Nhưng mà tôi vẫn nghe giọng thiên nga
Như người báo tin mừng, người đưa tin tai họa.

Khi sống thì không cần. Tôi không buộc tội.
Văn chương là đi vào địa ngục thôi mà
Cửa đi vào mừng vui không giấu nổi
Nhưng chẳng một ai tìm thấy đường ra.

Tôi không có lỗi. Đời đớn đau nhiều thế.
Và tôi cũng không trách chị điều gì.
Tất cả đều ngẫu nhiên, tất cả đều nô lệ
Sống thật diệu kỳ. Ta sống chẳng ra chi.


Maria Petrovyk

2. Bốn cái dấu chỉ đường

Akhmatova, Pasternak
Tsvetaeva, Mandelstam
Bốn cái tên khăng khít
Bốn cái dấu chỉ đường.

Ánh sáng của họ kiên gan
Mối liên hệ bí huyền sáng tỏ
Không thể dập tắt vì tinh tú
Muôn đời riêng, muôn đời chung.

Ngôi sao với ngôi sao trả lời
Với ta đó là bộ tứ
Như bốn phương của đất trời
Bốn mùa trong năm đầy đủ.

Thế kỷ ta đánh dấu sự công bằng
Của bốn người, không có gì phải giấu
Nỗi sợ hãi đã từng dồn vào họ
Đơn giản là khép kín một ô vuông.
Một gia đình, hai chị, hai anh
Ngôi nhà gỗ bốn góc, bốn hướng
1962


Veniamin Aizenshtadt (1921- 1991)

3. Khi tôi nói Tsvetaeva

Khi tôi nói Tsvetaeva, là tôi khóc
Giống như chết sau ba ngày tôi lại được hồi sinh
Báo tin về cái điều không may đầy khoái lạc
Về vị trí đầu tiên và tai họa của nàng.

Tôi muốn báo tin về sự bần cùng rất đặc biệt
Không mấy ai nghèo ở trong chốn thâm sơn
Bước qua ngưỡng cửa quan tài không sơn phết
Rồi sau đó trải ra kho báu của tâm hồn.

Không hiểu tại sao nhưng tôi mơ thấy Marina
Khi như kẻ đi lang thang trong bình minh buổi sớm
Khi như người bạn đồng hành của Chúa Giê-su
Khi lại như con chó cà nhắc trong sân rộng.

Khi tôi nói Tsvetaeva, là tôi đau đớn
Có vẻ như tôi đã lấy đi cắc bạc cuối cùng
Của cái người đã trao mình rất tự nguyện
Trao hết mình từ con tim đến bàn chân.

Khi tôi nói Tsvetaeva, là một nửa thế gian
Theo sau tôi bầy chó và những người hành khất
Marina ơi, tôi cay đắng thở bằng tấm lòng
Có vẻ như người mẹ và quan tài trên bờ môi đang khóc.


Galina Danilieva

4. Tiếng vọng không yên

Vẫn lang thang một tiếng vọng không yên
Không giữa núi đồi hay trong rừng thẳm
Trên ngực chị tiếng gõ vào tuyệt vọng
Và chiếc kim trên cân đã bị quên.

Vẫn lang thang tiếng vọng chị có nghe
Đừng lẫn lộn một tiếng kêu tha thiết!
Vào cuốn vở, có thể, là hãy viết
Một lời khổ đau hành hạ: A-a-a!

Tiếng vọng lang thang lời đã nói ra
Một lời nào những say mê tiệc lễ
Yêu chị sau một trăm năm trôi qua
Và tiếp theo sẽ muôn đời, là thế.

Vẫn lang thang một tiếng vọng không nhà
Và khát khao hòa một khúc ca mới
Viết hiệu lệnh bằng một ngôi sao sa
Đường của thi nhân đường ngôi sao chổi.
1994


 Nhại thơ Tsvetaeva

Aleksandr Finkel

5. Marina Tsvetaeva

Ngày hôm qua chỉ âu yếm dịu dàng
Ánh hào quang của màu đen và trắng
Thế mà hôm nay ghét không thể tưởng
Anh yêu ơi, em đã làm gì anh?

Ngày hôm qua hãy còn nằm dưới chân
Em đáp lại, ngắm nhìn anh mê mải
Thế mà hôm nay bỏ chạy vào rừng
Anh yêu ơi, em đã làm gì thế?

Và chó sói xám trong rừng thông dữ
Bị người ta bắt cóc được mang về
Anh của em cứ giậm chân tại chỗ
Anh của em đừng ăn thịt em nghe.

Chỉ những bàn chân và một chiếc sừng
Chỉ bàn chân và sừng em còn kịp
Sừng và chân của kẻ thù thu xếp
Anh yêu ơi, em đã làm gì anh?

Biết sống làm sao bây giờ trong lửa?
Băng giá làm sao đi đến thảo nguyên?
Đấy là điều anh đã làm cho em!
Anh yêu ơi, em đã làm gì thế?
1924




Marina Tsvetaeva 
(Mục lục 166 bài Song Ngữ)

1. Tôi thích rằng anh đau chẳng vì tôi
2. Tháng chạp và tháng giêng
3. Sự trìu mến nhường kia từ đâu vậy
4. Mới hôm qua anh còn nhìn mắt em
5. Chỉ là hai tiếng vang
6. Trừ lại tình yêu
7. Chỉ là cô gái
8. Giữa hai ta là vực.
9. Những màn sương xưa cũ của tình
10. Rouge ет bleue
11. Perpetuum mobile
12. Trong ngày thứ bảy
13. Bài hát ru cho Asya
14. Giống hệt như ta, người qua đường
15. Tôi sống rất mẫu mực và giản dị thôi
16. Đã chán rồi hát hò và tranh luận
17. Mà tình yêu? Đối với trẻ mục đồng
18. Người giàu có – yêu một cô gái nghèo
19. Hạnh phúc
20. Sau ngày lễ
21. Sau khi khách ra về
22. Dáng đi của tôi thật nhẹ nhàng
23. Tôi là trang giấy cho ngòi bút của Người
24. Khốn khổ cho ai mạnh mẽ, giàu sang
25. Mèo
26. Nếu như hạnh phúc  gõ cửa
27. Em muốn được sống cùng anh
28. Vô khối người đẹp, còn anh một mình
29. Anh đi về những xứ sở xa xăm
30. Tên Marina trên dao găm của mình
31. Kết quả trong ngày
32. Ở thiên đường
33. Chiến thắng
34. Chẳng nơi nọ, nơi này
35. Cỏ mộc tê và hoa hồng
36. Một bức thư trên trang giấy màu hồng
37. Đêm cuối năm
38. Một nửa ô cửa sổ đã mở ra
39. Thật ngọt ngào – hai người chung một ngựa
40. Tôi không nghĩ suy
41. Chiến tranh, chiến tranh
42. Bạn thân yêu về bên kia đại dương
43. Từng con sóng cuộn tròn bên tảng đá
44. Lá vàng rơi lả tả
45. Tôi đã từng gặp anh những ba lần
46. Anh hãy bước vào không cần gõ cửa
47. Khi em buồn – em suy nghĩ về anh
48. Gửi anh trong mùa thứ năm của năm
49. Không gặp gỡ
50. Em hạnh phúc không?
51. Dưới vẻ dịu dàng của tấm khăn nhung
52. Em đã từng rất lười mặc áo quần
53. Hãy nhớ rằng: tôi quí hơn tất cả
54. Hai kết cục
55. Từ thơ của M. D. V
56. Đám mây trắng có đường viền màu hồng
57. Ngôi nhà nhỏ màu hồng
58. Những giọt lệ
59. Lời chào từ trên tháp
60. Nàng Bạch Tuyết
61. Đò ngang
62. Trên vai phải của tôi
63. Những tên buôn lậu và những tên cướp
64. Liên minh tay ba
65. Không phải tình yêu, mà là cơn sốt nóng
66. Lấy khăn quấn thành vòng
67. Kết bạn với em không nên
68. Chưa thể yên lòng một khi chưa thấy
69. Hãy hôn đứa con gái
70. Đôi bàn tay, đôi bờ môi vô thường
71. Chẳng phải hôn nhau – chỉ là đặt nhẹ
72. Hai tiếng huýt bên tai
73. Trong thành phố lớn của tôi
74. Tôi như bọt phù du
75. Không nói rằng đã sống
76. Lòng dũng cảm và trinh tiết
77. Trong đêm tối
78. Tưởng nhớ Sergei Esenin
79. Anh và em thật khác
80. Tâm hồn và tên
81. Với vẻ dịu dàng lớn lao
82. Mỗi câu thơ – đứa con của tình yêu
83. Lời cầu nguyện
84. Niềm đam mê Digan
85. Từ cổ tích đi vào cổ tích
86. Hai mặt trời tắt ngấm
87. Tôi sẽ chết trong bình minh
88. Anh yêu em bằng sự dối lòng
89. Già hơn cả tình yêu
90. Một bông hoa nhỏ găm trên ngực
91. Như bàn tay phải, như bàn tay trái
92. Tôi yêu anh cả đời và mỗi ngày
93. Trong ngày giã biệt
94. Gửi Maiakovsky
95. Họ và chúng ta
96. Trẻ con
97. Dòng chữ đề trong cuốn anbom
98. Hạnh phúc
99. Gửi mẹ
100. Bông hồng đầu tiên
101. Những trò chơi dại dột
102. Chúc thượng lộ bình an!
103. Chuyện cổ tích tháng chạp
104. Dưới mưa
105. Anh hãy nhìn chăm chú
106. Anh xa lạ mà không hề xa lạ
107. Ở Schonbrunn
108. Ly biệt
109. Thơ mộ chí
110. Sự thật
111. Quí bà đêm giáng sinh
112. Không rời nhau trên một con đường
113. Đêm vũ hội đầu tiên
114. Tôi viết tặng những dòng thơ này
115. Gửi ngưòi phụ nữ với những cây hoa trà
116. Trái tim và tâm hồn
117. Anh sinh ra là thiếu sinh quân, là ca sĩ.
118. Trăng non
119. Không! Hãy còn cơn đói của tình
120. Bảy thanh kiếm đâm vào con tim
121. Những đêm thiếu người yêu
122. Tặng T. V. Churilin
123. Tặng Bryusov
124. Gửi Balmont
125. Gửi Mandelstam
126. Vĩnh biệt đến muôn đời
127. Thanh lương trà thắm đỏ
128. Ý thích hoang dại
129. Lại một ô cửa sổ
130. Điều lầm lỗi dễ thương
131. Gửi mẹ
132. Thêm một lời cầu nguyện
133. Ở Paris
134. Tặng Maiakovsky
135. Trên mắt những giọt lệ
136. Những cuốn sách bìa đỏ
137. Gửi Byron
138. Văn mộ chí
139. Hãy tha lỗi cho tôi
140. Tha lỗi nhé, Nina
141. Ký ức trái tim
142. Gửi P. Antakolsky
143. Tựa hồ như giọt nước mắt nóng bỏng
144. Chim thì thích bay vào rừng
145. Anh gọi tôi là đồ phóng đãng
146. Trong nhà anh, mọi thứ
147. Nước Nga ơi, xin Người đừng xấu hổ!
148. Anh gọi tôi là hư thân, đồi bại
149. Anh gọi tôi là hư thân, đồi trụy
150. Nhà của anh bị trộm
151. Tôi đã mệt mỏi làm một quí bà
152. Trong cuốn sách chết người
153. Như lời khen châm chích và trau chuốt
154. Tôi biết một sự thật
155. Tôi trao cuốn sách này cho cơn gió thoảng
156. Và Chúa nói rằng
157. Thời tuổi trẻ màu hồng
158. Tên của anh – con chim trong bàn tay
159. Anh đi qua phía tây của mặt trời
160. Cho con thú – cái hang
161. Ở Moskva của tôi – mái vòm cháy lên
162. Tâm hồn (Không phải là kẻ mạo danh)
163. Trả về người, thứ nát bươm từng mảnh
164. Có phải ta, người không cần thứ gì
165. Đắng cay! Đắng cay! Dư vị muôn thuở
166. Tàu ngưng vô thời hạn


Thơ về M. Tsvetaeva và nhại thơ Tsve: 5
George Adamovich
Tưởng nhớ Marina Tsvetaeva
Maria Petrovyk
Bốn cái dấu chỉ đường
Veniamin Aizenshtadt
Khi tôi nói Tsvetaeva
Galina Danilieva
Tiếng vọng không yên
Aleksandr Finkel
Marina Tsvetaeva



1 nhận xét: