120. BẢY
THANH KIẾM ĐÂM VÀO CON TIM
Bảy thanh
kiếm đâm vào con tim
Đức mẹ
Maria trên Chúa Con.
Đâm vào
con tim bảy lần thanh kiếm
Còn con
tim của tôi – bảy lần.
Tôi không
biết được có còn sống không
Người mà
tôi quý hơn con tim ấy
Người mà
tôi quý hơn Đức Chúa Con…
Với bài ca
này – tôi an ủi.
Nếu gặp –
hãy nói với chàng.
1918
Семь мечей пронзали сердце
Семь мечей пронзали сердце
Богородицы над Сыном.
Семь мечей пронзили сердце,
А мое — семижды семь.
Я не знаю, жив ли, нет ли
Тот, кто мне дороже сердца,
Тот, кто мне дороже Сына...
Этой песней — утешаюсь.
Если встретится — скажи.
1918
121. NHỮNG ĐÊM THIẾU NGƯỜI YÊU
Những đêm thiếu người yêu – và những đêm
Với người không yêu, và những ngôi sao lớn
Trên cái đầu nóng bỏng, và bàn tay
Những bàn tay giang rộng với người
Cái người chưa và sẽ không có trên đời
Cái người không thể và không cần có mặt.
Và nước mắt trẻ con cho nhân vật
Và nước mắt nhân vật cho trẻ con
Và những ngọn núi đá chập chùng
Nằm trên ngực cái người cần đi xuống…
Tôi biết những gì đã qua, những gì sẽ đến
Biết tất cả về những bí ẩn lặng câm
Rằng trong cái ngôn ngữ líu lô và tối tăm
Ngôn ngữ của con người gọi là – Cuộc sống.
1918
Ночи без любимого — и ночи
Ночи без любимого — и ночи
С нелюбимым, и большие звезды
Над горячей головой, и руки,
Простирающиеся к Тому —
Кто от века не был — и не будет,
Кто не может быть — и должен быть.
И слеза ребенка по герою,
И слеза героя по ребенку,
И большие каменные горы
На груди того, кто должен — вниз...
Знаю всё, что было, всё, что будет,
Знаю всю глухонемую тайну,
Что на темном, на косноязычном
Языке людском зовется — Жизнь.
1918
122. TẶNG T. V. CHURILIN
Tuyết sẽ
chẳng tan hết nay mai
Anh nằm
một mình dưới măng tô rộng.
Thương cho
anh vì đến muôn đời
Những bờ
môi khô cạn.
Nhọc nhằn
bước đi và khó uống
Người qua
đường vội vã đi nhanh.
Có phải
một con dao làm vườn
Trong bàn
tay Rogozhin kìm nén?
Hai con
mắt trên gương mặt của anh
Hai cái
vòng than đen trong quá khứ!
Rõ ràng
trong ngôi nhà buồn, cậu bé
Mà người
bạn gái kiếm cho mình.
Xa – trong
đêm – trên đường – cây gậy chống
Cửa mở
trong đêm – dưới ngọn gió lùa…
Hãy ghé
vào! – người khách không mong chờ
Vào thế
giới của tôi lặng yên và sáng.
1916
Т. В. Чурилину
Не сегодня-завтра растает снег.
Ты лежишь один под огромной шубой.
Пожалеть тебя, у тебя навек
Пересохли губы.
Тяжело ступаешь и трудно пьешь,
И торопится от тебя прохожий.
Не в таких ли пальцах садовый нож
Зажимал Рогожин?
А глаза, глаза на лице твоем —
Два обугленных прошлолетних круга!
Видно, отроком в невеселый дом
Завела подруга.
Далеко — в ночи — по асфальту — трость,
Двери настежь — в ночь — под ударом ветра...
Заходи — гряди!— нежеланный гость
В мой покой пресветлый.
1916
123. TẶNG V. YA. BRYUSOV
Tôi quên rằng con tim anh – chỉ là ngọn đèn đêm
Không phải ngôi sao! Điều này tôi không nhớ!
Rằng thơ
ca của anh từ trong sách vở
Vì ghen tỵ
– lời phê bình. Ông già còn trẻ
Và bây giờ
trong phút giây
Tôi ngỡ
rằng anh là nhà thơ vĩ đại.
В. Я. Брюсову
Я забыла, что сердце в Вас — только ночник,
Не звезда! Я забыла об этом!
Что поэзия ваша из книг
И из зависти — критика. Ранний старик,
Вы опять мне на миг
Показались великим поэтом.
1912
124. GỬI BALMONT
Rất lộng lẫy rồi hững hờ héo úa
Những bông hồng trên má thắm của ta.
Chỉ áo kamzon chật hơn ta mở
Ta đói như những người Tây Ban Nha.
Không có gì ta có thể cho không
Còn lấy về – cả núi đồi xê dịch!
Với tất cả niềm tự hào ngày trước
Cơn đói này – niềm kiêu hãnh mới toanh.
Áo bên ngoài ta đem lộn vào trong
Áo choàng của kẻ thù của nhân dân
Ta quả quyết vững vàng bằng dáng vẻ:
Và tự do – chỉ là một củ hành.
Và cuộc đời xe hàng nặng bánh xe
Và thói kiêu ngạo không hề giảm bớt
Ngựa phi nhanh. Có vẻ như không thoát:
– Một củ hành – và một nấm mồ.
Và câu trả lời của ta bên cửa
Vào thiên đường, sau cánh cửa hạnh nhân
– Bậc đế vương! – trong đại lễ của dân
Người ta đói – như một hành tinh nhỏ!
1919
Бальмонту
Пышно и бесстрастно вянут
Розы нашего румянца.
Лишь камзол теснее стянут:
Голодаем как испанцы.
Ничего не можем даром
Взять — скорее гору сдвинем!
И ко всем гордыням старым —
Голод: новая гордыня.
В вывернутой наизнанку
Мантии Врагов Народа
Утверждаем всей осанкой:
Луковица — и свобода.
Жизни ломовое дышло
Спеси не перешибило
Скакуну. Как бы не вышло:
— Луковица — и могила.
Будет наш ответ у входа
В Рай, под деревцем миндальным:
— Царь! На пиршестве народа
Голодали — как гидальго!
1919
125. GỬI MANDELSTAM
Không có ai lấy mất đi thứ gì
Tôi dễ chịu rằng hai ta riêng biệt
Tôi hôn anh – qua hàng trăm vexta
Qua hàng trăm vexta ngăn cách.
Tôi biết rằng tài thơ ta chênh lệch
Giọng của tôi im lặng – lần đầu tiên.
Rằng anh
là Derzhavin trẻ trung
Còn thơ
tôi là thơ vô giáo dục!
Tôi làm
dấu thánh vào chuyến bay khủng khiếp:
Con đại
bàng còn trẻ hãy bay xa!
Anh đã
chịu mặt trời, không nheo mắt
Ánh mắt
của tôi có thấy nặng nề?
Hãy dứt
khoát và hãy dịu dàng hơn
Chẳng có
ai nhìn anh theo dấu vết…
Tôi hôn
anh – đi qua hàng trăm năm
Hôn anh
qua hàng trăm năm cách biệt.
1916
О. Э. Мандельштаму
Никто ничего не отнял!
Мне сладостно, что мы врозь.
Целую Вас — через сотни
Разъединяющих верст.
Я знаю, наш дар — неравен,
Мой голос впервые — тих.
Что вам, молодой Державин,
Мой невоспитанный стих!
На страшный полет крещу Вас:
Лети, молодой орел!
Ты солнце стерпел, не щурясь,
Юный ли взгляд мой тяжел?
Нежней и бесповоротней
Никто не глядел Вам вслед...
Целую Вас — через сотни
Разъединяющих лет.
1916
126.VĨNH BIỆT ĐẾN MUÔN ĐỜI
Vĩnh biệt đến muôn đời! Thập ác buông!
Tôi đi tìm sau cơn mê sảng mới
Những vực thẳm mới, những ngôi sao mới
Tôi đi từ thất bại đến thành công!
Vĩnh biệt đến muôn đời! Hồn chắc thêm
Giấc mộng mới từ bao nhiêu giấc mộng
Tôi là tất cả tình yêu, bánh mì mềm
Của tình bạn tôi đã không cần đến.
Vĩnh biệt đến muôn đời! Vào con đường
Sự cương quyết khác sẽ tiễn bước chân.
Giữa chúng ta là bức tường vĩnh cửu
Niềm tự hào không thương xót đứng lên.
_____________
*Vĩnh biệt
đến muôn đời (Aeternum vale – tiếng Latin trong nguyên bản)
Aeternum
vale
Aeternum
vale! Сброшен крест!
Иду искать под новым бредом
И новых бездн и новых звезд,
От поражения - к победам!
Aeternum vale! Дух окреп
И новым сном из сна разбужен.
Я вся - любовь, и мягкий хлеб
Дареной дружбы мне не нужен.
Aeternum vale! В путь иной
Меня ведет иная твердость.
Меж нами вечною стеной
Неумолимо встала - гордость.
127. THANH LƯƠNG TRÀ THẮM ĐỎ
Thanh lương trà thắm đỏ
Rực lửa
thanh lương trà.
Rụng rơi
những chiếc lá.
Ngày đó
tôi sinh ra.
Cả hàng
trăm cây chuông
Hàng trăm
chuông tranh cãi.
Hôm ấy
ngày thứ bảy:
Là ngày
hội Thánh Giăng*.
Cho đến
tận hôm nay
Tôi vẫn
thèm được cắn
Chùm thanh
lương đắng cay
Thanh
lương trà nóng bỏng.
1916
________
*Thánh
Giăng (Ioan, Jean, John) – Thánh tông đồ, môn đệ của Đức Chúa Giê-su Christ,
người được coi là tác giả của Kinh Phúc âm IV, sách Khải Huyền và ba lá
thư trong Tân Ước.
Красною кистью
Красною кистью
Рябина зажглась.
Падали листья,
Я родилась.
Спорили сотни
Колоколов.
День был субботний:
Иоанн Богослов.
Мне и доныне
Хочется грызть
Жаркой рябины
Горькую кисть.
1916
128. Ý THÍCH HOANG DẠI
Tôi yêu những trò chơi như thế
Nơi tất cả đều ngạo mạn, dữ dằn.
Thích để cho kẻ thù là hổ
Và đại bàng!
Để hát lên lời hát kiêu căng:
“Cái chết ở đây, còn kia tù ngục!”
Để đêm với tôi đánh vật
Đêm tự mình!
Tôi lao vào – cái chết tựa lông hồng
Tôi mỉm
cười – trong tay dây thòng lọng…
Để cho xé
tôi ra từng mảnh
Trận cuồng
phong!
Để cho tất
cả kẻ thù – là anh hùng!
Để cho
chiến tranh sau khi tiệc lễ!
Để cho
trên đời chỉ còn hai kẻ:
Tôi và thế
gian!
1910
Дикая
воля
Я люблю такие игры,
Где надменны все и злы.
Чтоб врагами были тигры
И орлы!
Чтобы пел надменный голос:
"Гибель здесь, а там тюрьма!"
Чтобы ночь со мной боролась,
Ночь сама!
Я несусь, - за мною пасти,
Я смеюсь - в руках аркан...
Чтобы рвал меня на части
Ураган!
Чтобы все враги - герои!
Чтоб войной кончался пир!
Чтобы в мире было двое:
Я и мир!
1910
129. LẠI MỘT Ô CỬA SỔ
Lại một ô cửa sổ
Lại những kẻ thức chong đêm.
Có thể – họ uống rượu vang
Mà có thể – chỉ ngồi như thế.
Hay chỉ đơn giản những bàn tay
Không rời nhau của hai người.
Trong mỗi
ngôi nhà, người bạn
Có một ô
cửa sổ như vầy.
Không phải
từ những ngọn nến, ngọn đèn cháy lên
Mà từ
những đôi mắt thức đêm.
Tiếng kêu
của chia ly và gặp gỡ
Một ô cửa
sổ vào đêm!
Có thể –
nến có hàng trăm
Cũng có
thể – chỉ là ba ngọn nến…
Không, đầu
óc của tôi
Không hề
yên lặng
Và trong
nhà của tôi
Những thứ
kia xuất hiện.
Bạn hãy
cầu nguyện cho ngôi nhà thức đêm
Cho sau ô
cửa sổ ngọn lửa cháy lên!
1916
Вот опять окно
Вот опять окно,
Где опять не спят.
Может — пьют вино,
Может — так сидят.
Или просто — рук
Не разнимут двое.
В каждом доме, друг,
Есть окно такое.
Крик разлук и встреч —
Ты, окно в ночи́!
Может — сотни свеч,
Может — три свечи…
Нет и нет уму
Моему — покоя.
И в моём дому
Завелось такое.
Помолись, дружок, за бессонный дом,
За окно с огнём!
1916
130. ĐIỀU LẦM LỖI DỄ THƯƠNG
Sự nông nổi! Điều lầm lỗi dễ thương
Người bạn đường, kẻ thù của tôi thương mến!
Vào mắt của tôi, tiếng cười anh ném
Điệu nhảy dập dờn trong thớ thịt đường gân.
Học để cho chiếc nhẫn không giữ gìn
Với cái người cuộc đời không giao kết!
Bắt đầu với sự may rủi đến cùng
Và trước khi bắt đầu kết thúc.
Để cho như cỏ như cây, như thép
Trong cuộc đời, ta làm được ít quá chừng…
– Dùng sô-cô-la chữa cho nỗi buồn
Và cười với kẻ qua đường vào mặt!
1915
Легкомыслие! — Милый грех
Легкомыслие! — Милый грех,
Милый спутник и враг мой милый!
Ты в глаза мои вбрызнул смех,
И мазурку мне вбрызнул в жилы.
Научив не хранить кольца, —
С кем бы жизнь меня ни венчала!
Начинать наугад с конца,
И кончать ещё до начала.
Быть, как стебель, и быть, как сталь,
В жизни, где мы так мало можем…
— Шоколадом лечить печаль
И смеяться в лицо прохожим!
1915
131. GỬI
MẸ
Trong điệu
nhảy van Strauss, lần đầu
Chúng con
nghe ra lời dịu êm của mẹ
Rồi xa lạ
với tất cả những gì ồn ào từ đó
Chỉ mừng
vui với tiếng chuông của đồng hồ.
Chúng con
cũng như mẹ, chào đón những hoàng hôn
Tận hưởng
say sưa sự cận kề sau cuối.
Chúng con
giàu có với những hoàng hôn ấy
Là nhờ mẹ
đặt vào giữa những con tim.
Mẹ nhẫn
nại, kiên trì bên giấc ngủ của chúng con
(Vì thiếu
mẹ thì chỉ còn ánh trăng nhìn xuống!)
Mẹ dìu dắt
những đứa con nhỏ đi ngang
Qua những
ý nghĩ, việc làm của cuộc đời cay đắng.
Từ ấu thơ
chúng con đã quen với tiếng cười buồn
Với người
khổ đau, với mái nhà mình xa lạ…
Rồi con
tàu của chúng con đã nhổ neo lên đường
Trong giây
phút chẳng bình an, bơi theo nhiều ngọn gió!
Tái nhợt
hơn hòn đảo màu thanh thiên – thời thơ ấu
Chỉ chúng
con một mình còn lại đứng trên boong.
Và chỉ rõ
ràng một nỗi buồn thừa kế
Nỗi buồn
mà mẹ để lại cho những đứa con mình!
1907-1910
Мame
В старом вальсе штраусовском впервые
Мы услышали твой тихий зов,
С той поры нам чужды все живые
И отраден беглый бой часов.
Мы, как ты, приветствуем закаты,
Упиваясь близостью конца.
Все, чем в лучший вечер мы богаты,
Нам тобою вложено в сердца.
К детским снам клонясь неутомимо,
(Без тебя лишь месяц в них глядел!)
Ты вела своих малюток мимо
Горькой жизни помыслов и дел.
С ранних лет нам близок, кто печален,
Скучен смех и чужд домашний кров...
Наш корабль не в добрый миг отчален
И плывет по воле всех ветров!
Все бледней лазурный остров-детство,
Мы одни на палубе стоим.
Видно грусть оставила в наследство
Ты, о мама, девочкам своим!
1907-1910
132. THÊM MỘT LỜI CẦU NGUYỆN
Bây giờ con lại quì gối trước Ngài
Nhìn thấy vòng hoa của Ngài xa xôi lắm.
Cho con hiểu ra không phải tất cả đều là bóng
Không phải là chỉ ôm bóng thế thôi.
Con mệt mỏi, rã rời với những ngày dài
Trong màn sương mù, chẳng mục đích, không lo lắng…
Có thể yêu, nhưng làm sao sống bằng chiếc bóng
Với mười tám tuổi đời ở chốn trần ai?
Người ta nói rằng hạnh phúc buổi đầu tiên
Lòng nở hoa và hân hoan, tất cả!
Nhưng chẳng hề thấy hạnh phúc, ngoài nỗi buồn
Ngoài những người chết, bạn bè không hề có?
Vì muôn thuở người ta đốt lên lòng tin lạ
Và ẩn giấu trong chốn hoang vắng không người
Không, con chẳng cần những nụ cười bằng cái giá
Xúc phạm vào những thần thánh trên trời.
Con không cần hạnh phúc bằng cái giá hạ mình.
Không cần tình yêu! Con buồn – không về nó.
Con xin tân hồn, và chỉ bóng xin Ngài hãy trả
Trong xứ sở yên bình của chiếc bóng yêu thương.
1910
Еще молитва
И опять пред Тобой я склоняю колени,
В отдаленье завидев Твой звездный венец.
Дай понять мне, Христос, что не все только тени
Дай не тень мне обнять, наконец!
Я измучена этими длинными днями
Без заботы, без цели, всегда в полумгле...
Можно тени любить, но живут ли тенями
Восемнадцати лет на земле?
И поют ведь, и пишут, что счастье вначале!
Расцвести всей душой бы ликующей, всей!
Но не правда ль: ведь счастия нет, вне печали?
Кроме мертвых, ведь нету друзей?
Ведь от века зажженные верой иною
Укрывались от мира в безлюдье пустынь?
Нет, не надо улыбок, добытых ценою
Осквернения высших святынь.
Мне не надо блаженства ценой унижений.
Мне не надо любви! Я грущу - не о ней.
Дай мне душу, Спаситель, отдать - только тени
В тихом царстве любимых теней.
1910
133. Ở PARIS
Nhà cao đến tận sao, bầu trời thấp xuống
Mặt đất trong khói nồng càng thấy gần hơn.
Ở Paris
hân hoan và rộng lớn
Mà sao tôi
vẫn thế – một nỗi buồn.
Những
đường phố trong buổi chiều tấp nập
Đã tắt rồi
tia nắng cuối hoàng hôn.
Khắp mọi
nẻo chỉ những đôi uyên ương
Run rẩy
những bờ môi, cả gan từng đôi mắt.
Tôi ở đây
một mình. Lên cây dẻ
Ngả mái
đầu, bỗng thấy ngọt ngào sao!
Câu thơ
của Rostand trong tim nức nở
Ở Mạc Tư
Khoa không biết thế nào.
Paris về
đêm thấy xót thương và xa lạ
Lòng chỉ
vui cơn mê sảng ngày qua!
Về với nỗi
buồn, tôi đi về nhà
Dịu dàng
quá bức chân dung ai đó.
Ở nhà có
ánh mắt ai buồn bã
Có một
hình nghiêng âu yếm trên tường.
Người chịu
cực hình* và Rostand
Và cả Sara
- đều đi vào giấc ngủ!
Ở Paris
rộng lớn và hân hoan
Tôi mơ về
cỏ hoa và mây trắng
Tiếng cười
xa hơn, gần hơn chiếc bóng
Và một nỗi
đau sâu thẳm trong lòng.
1909
___________
*Napoleon
II (1811- 1832) – con trai của hoàng đế Pháp Napoleon
I. Lên ngôi hoàng đế năm 1915, sau khi Napoleon I bị truất quyền nhưng thực
chất không bao giờ được cầm quyền mà chỉ sống ở cung điện của ông ngoại Francis
I ở áo. Từ năm 1918 được phong tước Quận công (Reichstadt). Mắc bệnh lao và
chết lúc mới 21 tuổi.
В Париже
Дома до звезд, а небо ниже,
Земля в чаду ему близка.
В большом и радостном Париже
Все та же тайная тоска.
Шумны вечерние бульвары,
Последний луч зари угас,
Везде, везде всe пары, пары,
Дрожанье губ и дерзость глаз.
Я здесь одна. К стволу каштана
Прильнуть так сладко голове!
И в сердце плачет стих Ростана
Как там, в покинутой Москве.
Париж в ночи мне чужд и жалок,
Дороже сердцу прежний бред!
Иду домой, там грусть фиалок
И чей-то ласковый портрет.
Там чей-то взор печально-братский.
Там нежный профиль на стене.
Rostand и мученик
Рейхштадтский
И Сара -- все придут во сне!
В большом и радостном Париже
Мне снятся травы, облака,
И дальше смех, и тени ближе,
И боль как прежде глубока.
1909
134. TẶNG MAIAKOVSKY
Trên cả thập ác, trên tù và
Được rửa
tội trong khói lửa
Thiên thần
chậm chạp, nặng nề
Chào
Vladimir muôn thuở!
Anh là
người đánh xe, là ngựa
Anh vừa
đứng đắn lại cầu kỳ.
Lấy hơi,
nhổ vào bàn tay kia:
– Hãy giữ gìn vinh quang xe chở!
Người của
điều kỳ diệu quảng trường
Xin chào
người lọ lem kiêu hãnh
Người chọn
những hòn đá nặng
Không hề
quyến rũ bởi kim cương.
Xin chào
tiếng sấm sét đá đường!
Ngáp dài
phô trương –
rồi lại nữa
Càng xe – đôi cánh vẫy vùng
Của thiên
thần xe chở.
1921
Маяковскому
Превыше крестов и труб,
Крещённый в огне и дыме,
Архангел-тяжелоступ —
Здорово, в веках Владимир!
Он возчик, и он же конь,
Он прихоть, и он же право.
Вздохнул, поплевал в ладонь:
— Держись, ломовая слава!
Певец площадных чудес —
Здорово, гордец чумазый,
Что камнем — тяжеловес
Избрал, не прельстясь алмазом.
Здорово, булыжный гром!
Зевнул, козырнул — и снова
Оглоблей гребёт — крылом
Архангела ломового.
1921
135. TRÊN MẮT NHỮNG GIỌT LỆ
Trên mắt những giọt lệ!
Khóc vì giận, vì tình!
Ôi, nước Tiệp lệ tuôn!
Tây Ban
Nha máu đổ.
Ôi, một
ngọn đồi đen
Bao trùm
lên nhân thế!
Đã đến lúc
chiếc vé
Trả về lại
Hóa công.
Ta chối từ
cuộc sống.
Không phải
người Bedlam*
Ta chối từ
cuộc sống
Với chó
sói quãng trường.
Ta từ chối
–
tru lên
Với cá mập
đồng bằng
Ta chối từ
bơi lội
Đi xuống – theo sống lưng.
Lỗ thủng
ta không cần
Của tai,
của mắt tiên.
Câu trả
lời –
từ chối
Với thế
giới cuồng điên.
1939
_________
*Bedlam
– trước đây là bệnh viện mang tên
Saint Mary of Bethlehem, sau đó trở thành nhà thương điên của Luân Đôn.
Tsvetaeva dùng theo nghĩa bóng chỉ cảnh hỗn mang khi xảy ra chiến tranh thế
giới II.
О слёзы на глазах
О слёзы на глазах!
Плач гнева и любви!
О Чехия в слезах!
Испания в крови!
О чёрная гора,
Затмившая — весь свет!
Пора — пора — пора
Творцу вернуть билет.
Отказываюсь — быть.
В Бедламе нелюдей
Отказываюсь — жить.
С волками площадей
Отказываюсь — выть.
С акулами равнин
Отказываюсь плыть —
Вниз — по теченью спин.
Не надо мне ни дыр
Ушных, ни вещих глаз.
На твой безумный мир
Ответ один — отказ.
1939
136. NHỮNG CUỐN SÁCH BÌA ĐỎ
Từ thiên đường của tuổi thiếu niên
Các bạn gửi cho tôi lời tiễn biệt
Trong những cuốn sách bìa đỏ đã sờn
Những người bạn thủy chung như nhất.
Học thuộc xong bài tập rất nhẹ nhàng
Tôi chạy đến ngay với bè bạn đó
– Đã muộn! – Mẹ ơi, chỉ có mười dòng!...
Nhưng may
mắn là mẹ không còn nhớ!
Trên cây
đèn chùm lung linh ánh lửa
Ngồi ở nhà
đọc sách thích quá chừng!
Đọc về
Kui, Schumann, Greeg*
Tôi hiểu
ra số phận của chàng Tom.
Trời tối
dần, tươi mát giữa không trung…
Tom hạnh
phúc cùng Becky tin tưởng.
Cầm ngọn
đuốc –
chàng Joe Indian
Đang lạc
đường trong bóng đêm hang động…
Nghĩa địa… tiếng kêu cú đêm tiên đoán
(Tôi thấy
sợ!) Qua mô đất bay lên
Đứa con
nuôi của goá phụ phô trương
Như
Diogenes sống trong thùng rộng.
Phòng đăng
quang, hơn mặt trời, rực sáng
Trên đầu
một chàng trai cân đối –
ngai vàng
Bỗng – một ăn mày! Lạy Chúa! đã nói rằng:
“Xin cho phép tôi được kế thừa vương miện!”
Rồi đi vào
bóng đêm, ai trong đó
Đau buồn
thay cho số phận nước Anh
– Ôi, tại sao giữa những cuốn sách bìa đỏ
Không về
ngủ say ở dưới ánh đèn?
Ôi, cái
thời tuyệt đẹp thần tiên
Nơi tấm
lòng trắng trong, con tim gan dạ
Hỡi những
cái tên vàng:
Huck Finn,
Tom Sawyer, Ăn mày và Hoàng tử!
1910
__________
*Tên
những nhân vật trong những truyện thiếu nhi.
Книги в красном переплете
Из рая детского житья
Вы мне привет прощальный шлете,
Неизменившие друзья
В потертом, красном пререплете.
Чуть легкий выучен урок,
Бегу тот час же к вам, бывало,
- Уж поздно! - Мама, десять строк!.. -
Но, к счастью, мама забывала.
Дрожат на люстрах огоньки...
Как хорошо за книгой дома!
Под Грига, Шумана и Кюи
Я узнавала судьбы Тома.
Темнеет, в воздухе свежо...
Том в счастье с Бэкки полон веры.
Вот с факелом Индеец Джо
Блуждает в сумраке пещеры...
Кладбище... Вещий крик совы....
(Мне страшно!) Вот летит чрез кочки
Приемыш чопорной вдовы,
Как Диоген, живущий в бочке.
Светлее солнца тронный зал,
Над стройным мальчиком - корона...
Вдруг - нищий! Боже! Он сказал:
"Позвольте, я наследник трона!"
Ушел во тьму, кто в ней возник.
Британии печальны судьбы...
- О, почему средь красных книг
Опять за лампой не уснуть бы?
О золотые времена,
Где взор смелей и сердце чище!
О золотые имена:
Гекк Финн, Том Сойер, Принц и Нищий!
137. GỬI BYRON
Tôi nghĩ suy về buổi bình minh danh vọng
Về bình minh những ngày tháng của anh
Khi anh
thức giấc từ trong giấc mộng
Với người
ta –
thành quỉ sứ, thiên thần.
Tôi nghĩ
về hai bờ mi của anh
Hòa nhập
với đôi mắt như là ngọn đuốc
Rằng dòng
máu có dung nhan thời trước
Vẫn dạt
dào trong thớ thịt đường gân.
Nghĩ về
những ngón tay dài của anh
Trong mái
tóc gợn sóng
Về những
đôi mắt ngoài đường, trong khách sạn
Khát khao
anh.
Về những
con tim quá đỗi trẻ trung
Mà anh
không có thời gian để đọc
Về cái
thời gian khi mà trăng mọc
Rồi lặn
vào trong danh dự của anh.
Tôi nghĩ
về một gian phòng tối tăm
Về vải
nhung, viền đăng ten buông xuống
Về tất cả
những bài thơ theo năm tháng
Rằng: anh – cho tôi, tôi – cho anh.
Tôi còn
nghĩ về bụi bặm còn nguyên
Từ bờ môi
của anh, từ đôi mắt…
Về tất cả
những đôi mắt đã ngủ yên trong đất
Về họ và
chúng mình.
1913
Байрону
Я думаю об утре Вашей славы,
Об утре Ваших дней,
Когда очнулись демоном от сна Вы
И богом для людей.
Я думаю о том, как Ваши брови
Сошлись над факелами Ваших глаз,
О том, как лава древней крови
По Вашим жилам разлилась.
Я думаю о пальцах, очень длинных,
В волнистых волосах,
И обо всех - в аллеях и в гостиных -
Вас жаждущих глазах.
И о сердцах, которых - слишком юный -
Вы не имели времени прочесть,
В те времена, когда всходили луны
И гасли в Вашу честь.
Я думаю о полутемной зале,
О бархате, склоненном к кружевам,
О всех стихах, какие бы сказали
Вы - мне, я - Вам.
Я думаю еще о горсти пыли,
Оставшейся от Ваших губ и глаз...
О всех глазах, которые в могиле.
О них и нас.
1913
138. THƠ MỘ CHÍ
Tặng L. A. T
Trên mặt đất
– “Mắt
nhìn thẳng, ẩn vào trong góc…
Đồng ý
không? Chúng tôi đợi lâu rồi”.
– “Tôi
chẳng biết. Xin để lại mẹ tôi!
Để lại mẹ.
Tôi thế nào cũng được”.
Lời
cuối
Hãy tuyệt
vời và hãy đau buồn
Vườn mùa
thu trong tâm hồn hãy giữ!
Và cứ để
tỏa sáng buổi hoàng hôn
Ngươi với
hoàng hôn có quyền đâu chứ.
Kẻ như
ngươi không nên làm phật lòng
Tiếng động
khô khan –
cắt đứt sợi chỉ!
Trong
đất
– “Tiếng
thở dài có nặng nề trong ngực?
Có luôn
tối tăm trong chật hẹp nấm mồ?”
– “Tôi
chẳng biết. Hãy để lại người ta
Để lại
ngươi ta. Tôi thế nào cũng được”.
Ở
trên đất
– “Có
yêu bằng tất cả trái tim, có say mê?
Có tức
giận vì cái ác?”
– “Ô,
lạy Chúa, đồng ý với người ta!
Tôi mệt
mỏi. Tôi thế nào cũng được”.
Эпитафия
(Л.А.Т.)
На земле
- «Забилась в угол, глядишь упрямо...
Скажи, согласна? Мы ждем давно».
- «Ах, я не знаю. Оставьте, мама!
Оставьте, мама. Мне все равно!»
Последнее слово
О будь печальна, будь прекрасна,
Храни в душе осенний сад!
Пусть будет светел твой закат,
Ты над зарей была не властна.
Такой как ты нельзя обидеть:
Суровый звук - порвется нить!
В земле
- «Не тяжки ль вздохи усталой груди?
В могиле тесной всегда ль темно?»
- «Ах, я не знаю. Оставьте, люди!
Оставьте, люди! Мне все равно!»
Над землей
- «Добро любила ль, всем сердцем, страстно?
Зло - возмущало ль тебя оно?»
- «О Боже правый, со всем согласна!
Я так устала. Мне все равно!»
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét