98. HẠNH PHÚC
“Em ngày xưa chỉ quí mỗi hoa hồng
Trong mái tóc có một vành hoa khác.
Những bông hoa đam mê em phụ bạc?”
“Là em vì anh đấy, anh của em!”
“Vào
tháng tư anh cần hoa linh lan
Đến
tháng năm dưới chân anh giẫm đạp
Em
thì thào điều chi rất khó nhọc?”
“Là
em vì anh đấy, anh của em!”
“Chuông
lục lạc anh thấy rất dễ thương
Anh
sẽ làm đầy tớ chuông lục lạc
Em
lặng lẽ vành hoa mình giật phắt?”
“Là
em vì anh đấy, anh của em!”
Счастье
-- "Ты прежде лишь розы ценила,
В кудрях твоих венчик другой.
Ты страстным цветам изменила?"
-- "Во имя твое, дорогой!"
-- "Мне ландышей надо в апреле,
Я в мае топчу их ногой.
Что шепчешь в ответ еле-еле?"
-- "Во имя твое, дорогой!"
-- "Мне мил колокольчик-бубенчик,
Его я пребуду слугой.
Ты молча срываешь свой венчик?"
-- "Во имя твое, дорогой!"
99. GỬI MẸ
Có thật nhiều ở trên đời quên lãng
Từ con tim đi hẳn đến muôn đời
Chúng con nhớ buồn bã những bờ môi
Và nhớ mái tóc dày rậm.
Trên cuốn vở tiếng thở dài chầm chậm
Ngọc rubi trên chiếc nhẫn sáng ngời
Nhớ mỗi khi trên chiếc giường ấm cúng
Gương mặt của mẹ mỉm cười.
Chúng
con nhớ những con chim bị thương
Nỗi
buồn đau thời xuân xanh của mẹ
Và
trên những bờ mi nhiều giọt lệ
Khi
đã tắt tiếng dương cầm.
Мame
Как много забвением темным
Из сердца навек унеслось!
Печальные губы мы помним
И пышные пряди волос,
Замедленный вздох над тетрадкой
И в ярких рубинах кольцо,
Когда над уютной кроваткой
Твое улыбалось лицо.
Мы помним о раненых птицах
Твою молодую печаль
И капельки слез на ресницах,
Когда умолкала рояль.
100. BÔNG HỒNG ĐẦU TIÊN
Cô bé tặng bông hồng cho cậu bé
Bông hồng đầu tiên từ trong bụi hoa.
Cậu bé hôn cô bé lên môi, và thế là
Nụ hôn đầu đời trao cho người như thế.
Mặt trời khuất, đường phố cũng vắng hoe
Hôn vào môi quả thật là xấu hổ!
Có cần thiết bẻ hoa không cô bé
Bông hồng đầu tiên từ trong bụi hoa?
Первая роза
Девочка мальчику розу дарит,
Первую розу с куста.
Девочку мальчик целует в уста,
Первым лобзаньем дарит.
Солнышко скрылось, аллея пуста.
Стыдно в уста целовать!
Девочка, надо ли было срывать
Первую розу с куста?
101. NHỮNG TRÒ CHƠI DẠI DỘT
Con búp bê dại dột từ chiếc ghế
Tôi nhấc lên, mặc quần áo vào cho.
Rồi tôi vứt búp bê xuống sàn nhà:
Tôi đã chán ngấy trò chơi làm mẹ!
Tôi đã không đứng lên từ chiếc ghế
Mà thật lâu vào quyển sách tôi nhìn.
Rồi tôi lại vứt quyển sách xuống sàn:
Tôi đã chán ngấy trò chơi làm bố!
1906-1920
Скучные игры
Глупую куклу со стула
Я подняла и одела.
Куклу я на пол швырнула:
В маму играть — надоело!
Не поднимаясь со стула
Долго я в книгу глядела.
Книгу я на пол швырнула:
В папу играть — надоело!
1906-1920
102. CHÚC THƯỢNG LỘ BÌNH AN
Anh rụt rè nhìn vào đôi mắt em
Anh muốn liếc nhìn điều chi trong đó
Mặt trời đã ghé xuống sau đồng cỏ…
Anh
của em, chúc thượng lộ bình an!
Tình
là tình trong lần gặp đầu tiên
Xin
chịu hàng và xin anh quên lãng.
Đã
cháy lên trên ban công ngọn nến…
Anh
của em, chúc thượng lộ bình an!
Cho
con tim được yên trí, an thần
Anh
hãy để cho con tim được ngủ!
Em
đã mở rộng toang hai cánh cửa…
Anh
của em, chúc thượng lộ bình an!
Добрый путь!
В мои глаза несмело
Ты хочешь заглянуть.
За лугом солнце село...
Мой мальчик, добрый путь!
Любви при первой встрече
Отдайся и забудь.
Уж на балконе свечи...
Мой мальчик, добрый путь!
Успокоенье -- сердцу,
Позволь ему уснуть!
Я распахнула дверцу...
Мой мальчик, добрый путь!
103. CHUYỆN CỔ TÍCH THÁNG CHẠP
Ta hãy còn quá trẻ để mà tha thứ
Cho
người đã làm tan vẻ kiều diễm trong ta.
Nhưng,
để về cái người đã qua không buồn bã
Thì
ta lại quá già!
Từng
có lâu đài màu hồng như bình minh mùa đông
Như
thế giới mênh mông và như cơn gió cổ.
Ta
đã từng hầu như là con gái bậc đế vương
Hầu
như là những nàng công chúa.
Bố
là ông tiên, dữ dằn, tóc bạc
Ta
giận hờn, tìm cách buộc xiềng gông
Mỗi
buổi chiều cúi xuống trên tro tàn
Ta
làm phép thuật.
Người
ta uống máu bằng sừng của con hươu chạy nhanh
Người
ta nhìn những con tim qua kính lúp…
Ai
người có thể tin rằng trên đời có tình
Cứ
ngỡ rằng dại dột.
Có
một buổi chiều từ bóng tối nhạt nhoà
Một
hoàng tử buồn mặc áo quần màu xám
Chàng
nói không cần tin, thế mà ta
Lại
nghe theo và tin tưởng.
Bình
minh tháng chạp nhìn vào ô cửa sổ
Ánh
sáng rụt rè, màu đỏ thắm xa xăm…
Bình
minh ngủ và chẳng cần quan tâm
Rằng
ta đã từng đau khổ!
Ta
hãy còn quá trẻ để mà quên lãng
Người
đã làm tan vẻ kiều diễm trong ta.
Nhưng,
để lại yêu người dịu dàng đằm thắm
Thì
ta đã quá già!
Декабрьская сказка
Мы слишком молоды, чтобы простить
Тому, кто в нас развеял чары.
Но, чтоб о нем, ушедшем, не грустить,
Мы слишком стары!
Был замок розовый, как зимняя заря,
Как мир -- большой, как ветер --
древний.
Мы были дочери почти царя,
Почти царевны.
Отец -- волшебник был, седой и злой;
Мы, рассердясь, его сковали;
По вечерам, склоняясь над золой,
Мы колдовали;
Оленя быстрого из рога пили кровь,
Сердца разглядывали в лупы...
А тот, кто верить мог, что есть любовь,
Казался глупый.
Однажды вечером пришел из тьмы
Печальный принц в одежде серой.
Он говорил без веры, ах, а мы
Внимали с верой.
Рассвет декабрьский глядел в окно,
Алели робким светом дали...
Ему спалось и было всe равно,
Что мы страдали!
Мы слишком молоды, чтобы забыть
Того, кто в нас развеял чары.
Но, чтоб опять так нежно полюбить
Мы слишком стары!
104. DƯỚI MƯA
Chầm chầm một cơn mưa nhỏ
Ướt trên mái tóc vàng
Cô bé lặng lẽ đứng bên cánh cửa
Cô bé chờ mong.
Mây màu xám, còn xám hơn – ý nghĩ
Ý nghĩ rằng: “Liệu chàng có đến không?”
Hãy chạy đến ngay bây giờ, cậu bé
Cô bé chờ mong!
Từng khoảnh khắc cứ bay về phía trước
Con
tim trẻ thơ đã khôn hơn
Có
lâu không cậu bé, bên cánh cửa thứ nhất
Cô
bé chờ mong?
Под дождем
Медленный дождик идет и идет,
Золото мочит кудрей.
Девочка тихо стоит у дверей,
Девочка ждет.
Серые тучи, а думы серей,
Дума: "Придет? Не придет?"
Мальчик, иди же, беги же скорей:
Девочка ждет!
С каждым мгновеньем, летящим вперед,
Детское сердце мудрей.
Долго ли, мальчик, у первых дверей
Девочка ждет?
105. ANH HÃY NHÌN CHĂM CHÚ
Anh hãy nhìn chăm chú và nếu có thể – hãy dịu dàng hơn
Và nếu có thể – lâu hơn, đừng rời khỏi nàng ánh mắt
Nàng đứng trước mặt anh – trên cổ chuỗi hạt cườm
Và xõa xuống tận bờ vai mái tóc.
Ở nàng có tất cả những gì mà anh yêu, những gì bay lượn vòng quanh đời đấy
Anh đã không còn đuổi kịp – dù con tàu chạy chẳng hề mau.
Trong tôi không phải tình yêu của thi sĩ nói lời đâu
Và cũng không phải niềm kiêu hãnh của người em gái.
Nàng có tên Asia: nhưng – ngọn lửa là tên gọi nàng hay nhất
Cái tên chưa từng có, không có và muôn đời sẽ không có ở một ai.
Và anh hãy nhớ rằng muôn thuở nàng sẽ đứng trước mặt anh đây
Rằng tất cả chúng ta rồi sẽ chết…
1913
Взгляните внимательно и если возможно –
нежнее
Взгляните внимательно и если возможно
-- нежнее.
И если возможно -- подольше с нее не
сводите очей
Она перед вами-дитя с ожерельем на шее
И локонами до плечей.
В ней-все, что вы любите, все, что,
летя вокруг света
Вы уже не догоните -- как поезда ни
быстры.
Во мне говорят не влюбленность поэта
И не гордость сестры.
Зовут ее Ася: но лучшее имя ей --
пламя,
Которого не было, нет и не будет вовеки
ни в ком.
И помните лишь, что она не навек перед вами.
Что все мы умрем...
1913
106. ANH XA LẠ MÀ KHÔNG HỀ XA LẠ
Anh xa lạ mà không hề xa lạ
Anh thân quen mà cả chẳng hề thân
Anh của em và không phải của em
Em về nhà, không nói “đi làm khách”
Và em không nói “đi về nhà mình”.
Tình yêu – như bếp lửa cháy ngày đêm
Tình như chiếc nhẫn – vật gì to lớn
Tình như bàn thờ – lớn lao ánh sáng
Và, Đức Chúa Trời – chẳng mang ơn!
1918
Ты мне чужой и не чужой
Ты мне чужой и не чужой,
Родной и не родной,
Мой и не мой! Идя к тебе
Домой -- я "в гости" не
скажу,
И не скажу "домой".
Любовь -- как огненная пещь:
А все ж и кольцо -- большая вещь,
А все ж и алтарь -- великий свет.
-- Бог -- не благословил!
1918
107. Ở SCHONBRUNN*
Hơi thở đầu của mùa xuân dịu dàng
Trăng và đêm thật dịu êm, ấm áp.
Lại những giấc mơ, những dòng nước mắt
Trong lâu
đài Schonbrunn hoàng hôn.
Có hình
bóng của ai kia màu trắng
Đã từng
cúi thấp, gục xuống trên bàn.
Lại những
thở dài, lại cơn mê sảng
“Ở Paris…
Mác-xây! Ngai vàng!…”
Những con
chữ ùa ra từ giấy trắng
Là những
đội quân. Vang tiếng kèn đồng…
Những giọt
lệ từ bờ mi rơi xuống
Bờ môi thì
thầm: “em lại cùng anh!”
Ánh sáng
mờ đục của những ngọn đèn
Đang dần
tắt nhưng mà đêm sáng hẳn.
Có hình
bóng của ai rất dữ tợn
Đã lớn
trong lòng đường phố của đêm?
… Hoàng tử
nước áo? Đấy là nhân vật!
Là quận
công? Giấc mộng! Giữa mùa đông?
Không, chỉ
là một ông vua bé nhất
“Hỡi bậc
đế vương, hỡi đứa con!
Ta phóng
nhanh, xích xiềng xa xôi lắm
Ta tự do.
Chẳng hề có tù binh.
Con thấy
chăng những ngọn lửa bập bùng?
Có nghe
sông Seine dạt dào vỗ sóng?”
Chiếc áo
choàng của cha sao mà rộng!
Ngựa phóng
như bay, ngọn lửa bập bùng.
“Có tiếng
gì ầm ĩ trong rừng rậm?
Biển
chăng?” – “Những người lính đó con!”
Ô cha ơi,
sao mà cha cháy lên!
Cha hãy
liếc nhìn sang bờ bên phải
Thiên
đường chăng?” – “Là Paris đấy!”
“Còn trên
Paris?” – “Là sự vinh quang”.
Điện
Tuileries trong ánh sáng huy hoàng
Những lá
cờ đang tung bay trong gió.
“Giờ hãy
trị vì! Con từng đau khổ!
Chào con
trai hoàng đế Napoleon!”
Những
chiếc trống, âm thanh những dây đàn
Tất cả
trong hoa… Con trẻ đều hoan hỉ
Schonbrunn
ngủ. Tất cả đều lặng lẽ.
Có ai
người đang khóc dưới ánh trăng.
___________
*Schonbrunn –
cung điện
hoàng đế ở Viên (Áo) được xây dựng từ năm 1750 có vườn hoa, đài phun nước đẹp
nổi tiếng. Tại đây năm 1805 Napoleon ký hiệp ước trung lập với nước Phổ và năm
1809 là nơi ký hiệp ước hoà bình, kết thúc chiến tranh Pháp - Áo. Nước áo đồng
ý nhường một số đất đai cho Pháp, cắt quan hệ ngoại giao với Anh và giảm quân
đội… Những điều kiện của hiệp ước năm 1809 bị Quốc hội Áo huỷ bỏ năm 1814-1815.
В Шенбрунне
Нежен первый вздох весны,
Ночь тепла, тиха и лунна.
Снова слезы, снова сны
В замке сумрачном Шенбрунна.
Чей-то белый силуэт
Над столом поникнул ниже.
Снова вздохи, снова бред:
"Марсельеза! Трон!.. В
Париже..."
Буквы ринулись с страниц,
Строчка -- полк. Запели трубы...
Капли падают с ресниц,
"Вновь с тобой я!" шепчут
губы.
Лампы тусклый полусвет
Меркнет, ночь зато светлее.
Чей там грозный силуэт
Вырос в глубине аллеи?
...Принц австрийский? Это роль!
Герцог? Сон! В Шенбрунне зимы?
Нет, он маленький король!
-- "Император, сын любимый!
Мчимся! Цепи далеки,
Мы свободны. Нету плена.
Видишь, милый, огоньки?
Слышишь всплески? Это Сена!"
Как широк отцовский плащ!
Конь летит, огнем объятый.
"Что рокочет там, меж чащ?
Море, что ли?" -- "Сын, --
солдаты!"
-- "О, отец! Как ты горишь!
Погляди, а там направо, --
Это рай?" -- "Мой сын --
Париж!"
-- "А над ним склонилась?" --
"Слава".
В ярком блеске Тюилери,
Развеваются знамена.
-- "Ты страдал! Теперь цари!
Здравствуй, сын Наполеона!"
Барабаны, звуки струн,
Все в цветах.. Ликуют дети...
Всe спокойно. Спит Шенбрунн.
Кто-то плачет в лунном свете.
108. LY BIỆT
Vẫn phóng như xưa con ngựa của anh
Trên
công viên, trong giờ đã muộn
Nhưng
con tim khóc, trong tim chiếc bóng
Hoàng
tử của em, cậu bé của em.
Một
giọng nói thì thầm bên tai em:
“Chớ
mang ách của một cơn mơ mộng!”
Trước
ly biệt của muôn đời bí ẩn
Hãy
nhận về lời xin lỗi của em.
Về
con Chúa Trời em viết những dòng
Chàng
muôn thuở trẻ trung và sáng sủa
Mua
ban ngày của Golgotha* bất tử
Golgotha
của anh – cung điện Schonbrunn.
Những
cây chuông vang lên bên tai em
Rửa
tội cho anh bằng lời của Chúa…
Em
đã từng trao cho anh nhiều quá!
Em
đã từng trao nhiều quá cho anh!
Và
bây giờ linh hồn em bình yên
Đừng
xáo động bằng những lời trách cứ…
Vĩnh
biệt nhé, nỗi buồn người lính cũ
Con
đại bàng sau trận đánh bị thương!
Anh
đã là cơn mê sảng của em
Là
giấc mơ không bao giờ còn nữa…
Chàng
quận công tóc sáng, thôi chào nhé
Vĩnh biệt chàng, tình yêu lớn của em!
_____________
*Golgotha
– tiếng Do Thái nghĩa là sọ dừa, ngọn đồi ở ngoại ô Jerusalem, nơi đóng đinh
Chúa Giê-su Christ trên cây thập tự.
Pасставание
Твой конь, как прежде, вихрем скачет
По парку позднею порой...
Но в сердце тень, и сердце плачет,
Мой принц, мой мальчик, мой герой.
Мне шепчет голос без названья:
-- "Ах, гнета грезы -- не снести!"
Пред вечной тайной расставанья
Прими, о принц, мое прости.
О сыне Божьем эти строфы:
Он, вечно-светел, вечно-юн,
Купил бессмертье днем Голгофы,
Твоей Голгофой был Шенбрунн.
Звучали мне призывом Бога
Твоих крестин колокола...
Я отдала тебе -- так много!
Я слишком много отдала!
Теперь мой дух почти спокоен,
Его укором не смущай...
Прощай, тоской сраженный воин,
Орленок раненый, прощай!
Ты был мой бред светло-немудрый,
Ты сон, каких не будет вновь...
Прощай, мой герцог светлокудрый,
Моя великая любовь!
109. THƠ MỘ CHÍ
Cho người nằm dưới hoa cỏ mùa xuân
Xin Chúa tha ý nghĩ xấu, lỗi lầm!
Người này đã từng đớn đau, phờ phạc
Yêu tiếng cười con trẻ với thiên thần.
Không đuổi sao của tuyết tử đinh hương
Dù đã từng
mong vượt qua Chúa tể…
Trong lầm
lỗi là đứa bé dịu dàng
Xin Chúa
tha thứ cho người, vì thế!
Variant:
Variant:
Cho kẻ đang nằm dưới hoa cỏ mùa xuân
Xin Chúa tha thứ cho lỗi lầm và
điều ác ý!
Ông không người ở đây và
đau ốm đã từng
Đã yêu các thiên thần và tiếng cười con trẻ.
Không vò nát ngôi sao của tử đinh hương trắng xóa
Dù ông vẫn từng mong với Chúa tể đấu tranh…
Trong tất cả lỗi lầm –
ông từng là đứa trẻ dịu dàng
Và bởi thế, hãy tha thứ cho ông, xin lạy Chúa!
Эпитафия
Тому, кто здесь лежит под травкой вешней,
Прости, Господь, злой помысел и грех!
Он был больной, измученный, нездешний,
Он ангелов любил и детский смех.
Не смял звезды сирени белоснежной,
Хоть и желал Владыку побороть...
Во всех грехах он был - ребенок нежный,
И потому - прости ему, Господь!
110. SỰ
THẬT
Vitam
impendere vero*
Đời mệt
mỏi trút hơi thở ngượng ngùng
Ngọn gió
hồng tỏa ra cơn bất tỉnh
Ta cách
trở đâu tại người, mà bóng
Con tim
của em, cậu bé của em!
Khoác màn
sương, nhô cao những bức tường
Mặt trời
uể oải buông trên ngọn giáo…
Anh ở đâu,
buổi chiều em lạnh quá
Con tim
của em, cậu bé của em?
Anh không
nghe. Đến sát những bức tường
Tất cả tối
om, nhập vào tất cả
Chưa từng
có và sẽ không thay thế
Con tim
của em, cậu bé của em!
1910
_________
*Trao
đời vì sự thật (tiếng Latinh).
Правда
Vitam impendere vero.
Мир утомленный вздохнул от смятений,
Розовый вечер струит забытье...
Нас разлучили не люди, а тени,
Мальчик мой, сердце мое!
Высятся стены, туманом одеты,
Солнце без сил уронило копье...
В мире вечернем мне холодно. Где ты,
Мальчик мой, сердце мое?
Ты не услышишь. Надвинулись стены,
Все потухает, сливается все...
Не было, нет и не будет замены,
Мальчик мой, сердце мое!
1910
111. QUÍ BÀ ĐÊM GIÁNG SINH
Con lừa xám của bà đang chạy thẳng
Không sợ gì vực thẳm, chẳng sợ sông.
Hỡi quí bà đêm giáng sinh dễ thương
Hãy đem tôi theo cùng vào mây trắng!
Tôi sẽ kiếm bánh mỳ cho lừa con
(Tôi nhẹ nhàng! Không nhìn, nghe cũng chẳng).
Tôi không mang đồ chơi lên trời xanh
Hãy đem tôi theo cùng vào mây trắng!
Từ trong
kho, mẹ thiu thiu, mơ mộng
Tôi sẽ tìm
bình sữa cho lừa con.
Hỡi quí bà
đêm giáng sinh dễ thương
Hãy đem
tôi theo cùng vào mây trắng!
Рождественская дама
Серый ослик твой ступает прямо,
Не страшны ему ни бездна, ни река...
Милая Рождественская дама,
Увези меня с собою в облака!
Я для ослика достану хлеба,
(Не увидят, не услышат, - я легка!)
Я игрушек не возьму на небо...
Увези меня с собою в облака!
Из кладовки, чуть задремлет мама,
Я для ослика достану молока.
Милая Рождественская дама,
Увези меня с собою в облака!
112. KHÔNG RỜI NHAU TRÊN MỘT CON ĐƯỜNG
Anh đứng bên cánh cửa xách cái túi
Một nỗi buồn trên gương mặt của anh!
Anh có muốn, khi còn chưa muộn màng
Ta cùng đọc một bài thơ lần cuối.
Hãy cứ để cho giọng chung nhắc lại
Cho đến bay giờ thì vẫn lời chung
Nhưng đã
vỡ ra hai mảnh con tim
Và con
đường chung bây giờ hai nẻo.
Trên dương
cầm chưa muộn màng đến nỗi
Như ngày
xưa, hãy buông xuống mái đầu
Hai nụ
cười và hai nỗi buồn đau
Cùng hát
lên câu giã từ lần cuối.
Đã đến
lúc! Buộc những hộp các tông
Tấm khăn
choàng đã từ lâu buộc chặt
Xin Chúa
giữ gìn lời anh thánh thót
Và trí
thông minh 16 tuổi xanh!
Khi ở trên
rừng và khi trên đồng
Trong sao
sáng cả bầu trời đứng lặng
Hai kẻ
từng không rời nhau hai hướng
Hai con
tàu về phía trước lao nhanh.
Неразлучной в дорогу
Стоишь у двери с саквояжем.
Какая грусть в лице твоем!
Пока не поздно, хочешь, скажем
В последний раз стихи вдвоем.
Пусть повторяет общий голос
Доныне общие слова,
Но сердце на два раскололось.
И общий путь - на разных два.
Пока не поздно, над роялем,
Как встарь, головку опусти.
Двойным улыбкам и печалям
Споем последнее прости.
Пора! завязаны картонки,
В ремни давно затянут плед...
Храни Господь твой голос звонкий
И мудрый ум в шестнадцать лет!
Когда над лесом и над полем
Все небеса замрут в звездах,
Две неразлучных к разным долям
Помчатся в разных поездах.
113. ĐÊM VŨ HỘI ĐẦU TIÊN
Đêm vũ hội đầu tiên – tự dối lòng!
Giống như chương đầu tiên trong cuốn truyện
Vì nhầm
lẫn đã trao cho trẻ con
Rồi đi đòi
hỏi, hãy còn quá sớm.
Như cầu
vồng ánh trong đài phun nước
Anh, đêm
vũ hội đầu tiên – tự dối lòng
Anh giống
như bùa hộ mệnh phương Đông
Như chiến
công trong thơ nhà thơ Pháp*.
Như ngọn
lửa xuyên qua màn sương hồng
Trên màn
ảnh những bóng hình pha tạp…
Đêm vũ hội
đầu tiên – tự dối lòng!
Vết thương
lòng không thể liền da được!
___________
*Edmond
Rostand (1868-1918) – nhà văn, nhà thơ Pháp.
Первый бал
О, первый бал — самообман!
Как первая глава романа,
Что по ошибке детям дан,
Его просившим слишком рано,
Как радуга в струях фонтана
Ты, первый бал, — самообман.
Ты, как восточный талисман,
Как подвиги в стихах Ростана.
Огни сквозь розовый туман,
Виденья пестрого экрана…
О, первый бал — самообман!
Незаживающая рана!
114. TÔI VIẾT TẶNG NHỮNG DÒNG THƠ NÀY
Tôi viết tặng những dòng thơ này
Cho những ai đào cho tôi ngôi mộ.
Người ta đem che đi vầng trán cao
Vàng trán của tôi giận dữ.
Tôi thay đổi không cần
Với một vành hoa trên trán
Tôi xa lạ
với con tim mình
Sẽ nằm
trong mồ im lặng.
Trên gương
mặt tôi người ta chẳng nhìn
“Tôi nghe
ra, tôi nhìn ra tất cả!
Trong mộ
tôi vẫn phật lòng
Như tất
cả”.
Trông áo
quần thời bé – màu tuyết trắng
Màu chẳng
dễ thương!
Tôi sẽ nằm
– và có ai bên cạnh
Đến năm
tháng cuối cùng.
Tôi chẳng
nghe theo đâu! Hãy nghe đây
Đấy là cạm
bẫy
Đừng đặt
tôi vào trong đất đai
Đừng đặt
tôi vào như vậy.
Tôi biết
rằng tất cả sẽ bị thiêu!
Nấm mồ
không là nơi trú ẩn
Chẳng có
gì tôi yêu
Hơn là
cuộc sống.
1913
Посвящаю эти строки
Посвящаю эти строки
Тем, кто мне устроит гроб.
Приоткроют мой высокий,
Ненавистный лоб.
Изменённая без нужды,
С венчиком на лбу,
Собственному сердцу чуждой
Буду я в гробу.
Не увидят на лице:
«Всё мне слышно! Всё мне видно!
Мне в гробу ещё обидно
Быть как все».
В платье белоснежном — с детства
Нелюбимый цвет! —
Лягу — с кем-то по соседству? —
До скончанья лет.
Слушайте! — Я не приемлю!
Это — западня!
Не меня опустят в землю,
Не меня.
Знаю! — Всё сгорит дотла!
И не приютит могила
Ничего, что я любила,
Чем жила.
1913
115. GỬI NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI CÂY HOA TRÀ
Con đường của em sáng ngời gian phòng ác
Margarita,
người ta xét đoán em.
Em có lỗi
gì? Lỗi lầm thân xác!
Còn tâm
hồn, em gìn giữ tiết trinh.
Với người
này, người kia, tất cả
Em mỉm
cười, với tất cả gật đầu.
Và cái
cười nửa miệng này đau khổ
Cho thân
mình em khóc đã từ lâu.
Ai hiểu
em? Bàn tay ai giúp đỡ?
Tất cả chỉ
cần đắm đuối mê hồn!
Mãi mãi
chỉ chờ vòng tay rộng mở
Mãi mãi
chỉ chờ: “Anh khát khao em!”
Ngày và
đêm những thú nhận dối gian…
Ngày và
đêm rồi ngày mai lại nữa!
Đã nói ra
những lời rất hùng hồn
Ánh mắt
của em tối tăm, đau khổ.
Ngày mỗi
chặt cái vòng vây nguyền rủa
Số phận
trả thù tiên nữ trần gian…
Một cậu bé
với nụ cười con trẻ
Nhìn gương
mặt em và cảm thấy buồn.
Ôi tình
yêu! Tình cứu độ thế gian
Chỉ trong
tình có chở che, cứu rỗi.
Tất cả
trong tình. Em hãy ngủ bình an
Tất cả
trong tình… Em đã yêu và cứu rỗi!
Даме с камелиями
Все твой путь блестящей залой зла,
Маргарита, осуждают смело.
В чем вина твоя? Грешило тело!
Душу ты -- невинной сберегла.
Одному, другому, всем равно,
Всем кивала ты с усмешкой зыбкой.
Этой горестной полуулыбкой
Ты оплакала себя давно.
Кто поймет? Рука поможет чья?
Всех одно пленяет без изъятья!
Вечно ждут раскрытые объятья,
Вечно ждут: "Я жажду! Будь моя!"
День и ночь признаний лживых яд...
День и ночь, и завтра вновь, и снова!
Говорил красноречивей слова
Темный взгляд твой, мученицы взгляд.
Все тесней проклятое кольцо,
Мстит судьба богине полусветской...
Нежный мальчик вдруг с улыбкой детской
Заглянул тебе, грустя, в лицо...
О любовь! Спасает мир -- она!
В ней одной спасенье и защита.
Всe в любви. Спи с миром, Маргарита...
Всe в любви... Любила -- спасена!
116. TRÁI TIM VÀ TÂM HỒN
Hồn ở trong ta – những gian phòng dành cho khách hiếm
Những người biết cây trong nhà kính đẹp tuyệt vời.
Rong những phòng này những chiếc bóng dịu dàng nghỉ ngơi
Những chiếc bóng khác nhau sau những chặng đường đau đớn.
Con tim ta
là những trai phòng chật chội.
Trong đó
giữ một tù nhân cho đén phút xuống mồ.
Trong trai
phòng của em giam cầm cho đến cuối
Anh thân
yêu, anh chẳng có bạn bè!
Сердца и души
Души в нас - залы для редких гостей,
Знающих прелесть тепличных растений.
В них отдыхают от скорбных путей
Разные милые тени.
Тесные келейки - наши сердца.
В них заключенный один до могилы.
В келью мою заточен до конца
Ты без товарища, милый!
117. ANH SINH RA LÀ THIẾU SINH QUÂN
Anh sinh ra là thiếu sinh quân, là ca sĩ.
Còn em –
trong mái tóc có vàng.
Ta còn trẻ
trung và ta đi kể
Về những
bậc đế vương.
Ta sẽ cùng
lên dây những cây đàn
Kể về màu
vàng những con đường tháng chín
Thái độ
của những ông vua với ngai vàng
Thật là
kinh tởm.
Đó là con
quỉ tự vệ cho mình
Vẻ trang
nghiêm làm cho những nhà vua tức giận
Ông vua
của em không bằng lòng vương miện
Cũng giống
như nhà vua của anh.
Ta uổng
phí đứng trước mặt những bậc đế vương
Ta trải
dài ra vào trong đất bụi
Và những
nhà vua kia đã không hiểu nổi
Rằng chúng
là những bậc đế vương.
1913
Вы родились певцом и пажем
Вы родились певцом и пажем.
Я — с золотом в кудрях.
Мы — молоды, и мы ещё расскажем
О королях.
Настроив лютню и виолу,
Расскажем в золоте сентябрьских аллей,
Какое отвращение к престолу
У королей.
В них — демон самообороны,
Величия их возмущает роль, —
И мой король не выдержит корону;
Как ваш король.
Напрасно перед их глазами
Мы простираемся в земной пыли, —
И — короли — они не знают сами,
Что — короли!
1913
118. TRĂNG NON
Mảnh trăng non hiện ra trên đồng cỏ
Trên những mép bờ hoa cỏ đầy sương.
Người xa lạ, người dưng rất dễ thương
Hãy đến đây, ngươi sẽ là bạn nhé.
Ngày tôi im lặng, ngày tôi ẩn náu
Trăng giữa trời xanh, sức lực đâu còn!
Trong
những đêm này dưới ánh trăng thanh
Tôi khao
khát một bờ vai yêu dấu.
Không tự
hỏi mình: “người ấy là ai?”
Những bờ
môi sẽ nói ra tất cả!
Chỉ ban
ngày những vòng tay thô lỗ
Chỉ ban
ngày khí tiết đến buồn cười.
Chỉ ban
ngày mệt như quỉ, rã rời
Với nụ
cười trên môi tôi nằm nghỉ.
Còn đêm…
một người dưng, thương thế!
Trăng lưỡi
liềm đã mọc ở giữa trời.
1909
Новолунье
Новый месяц встал над лугом,
Над росистою межой.
Милый, дальний и чужой,
Приходи, ты будешь другом.
Днем — скрываю, днем — молчу.
Месяц в небе, — нету мочи!
В эти месячные ночи
Рвусь к любимому плечу.
Не спрошу себя: «Кто ж он?»
Все расскажут — твои губы!
Только днем объятья грубы,
Только днем порыв смешон.
Днем, томима гордым бесом,
Лгу с улыбкой на устах.
Ночью ж… Милый, дальний… Ах!
Лунный серп уже над лесом!
1909
119. KHÔNG! HÃY CÒN CƠN ĐÓI CỦA TÌNH
Không! Hãy còn cơn đói của tình
Chưa làm cho bờ môi mở rộng.
Rất dịu dàng – vì thế mà trẻ trung
Rất dịu dàng – vì thế mà trống rỗng.
Nhưng than
ôi! Cái miệng trẻ con này
Lại là
những cánh hoa hồng Shiraz!
Và tất cả
thói muốn ăn thịt người
Vẫn đang
còn lăm le giơ nanh vuốt.
1917
Нет! Еще любовный голод
Нет! Еще любовный голод
Не раздвинул этих уст.
Нежен — оттого что молод,
Нежен — оттого что пуст.
Но увы! На этот детский
Рот — Шираза лепестки! —
Все людское людоедство
Точит зверские клыки.
1917
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét